Tiền công, giá cả và lợi nhuận (1865) – Tiền công và giá cả

*Mục lục:

     * Lời mở đầu.

  1. Sản xuất và tiền công
  2. Sản xuất, tiền công và lợi nhuận
  3. Tiền công và tiền
  4. Cung và cầu
  5. Tiền công và giá cả
  6. Giá trị và lao động
  7. Sức lao động
  8. Sự sản xuất ra giá trị thặng dư
  9. Giá trị của lao động
  10.  Lợi nhuận được thực hiện khi bán hàng hóa theo giá trị của nó
  11.  Những phần khác nhau mà giá trị thặng dư phân giải thành
  12.  Tỷ lệ chung giữa lợi nhuận, tiền công và giá cả
  13.  Những trường hợp quan trọng nhất trong cuộc đấu tranh đòi tăng tiền công hay chống lại việc giảm tiền công
  14.  Cuộc đấu tranh giữa tư bản và lao động và kết quả của nó

     


 

5. TIỀN CÔNG VÀ GIÁ CẢ

 

 Tất cả những lý lẽ của ông bạn chúng ta – nếu quy thành biểu hiệu lý luận đơn giản nhất của chúng lại là giáo điều duy nhất sau đây: “Giá cả các hàng hóa là do tiền công quyết định hay điều tiết.”

 

 Tôi có thể viện vào kinh nghiệm thực tế để bác bỏ ý kiến sai lầm đã lỗi thời và đã bị bác bỏ từ lâu đó. Tôi có thể chỉ ra cho các bạn thấy rằng những sản phẩm do bàn tay của những công nhân công xưởng, hầm mỏ, xưởng đóng tàu, v.v., ở Anh – mà lao động được trả công tương đối cao – làm ra, lại được đem bán rẻ hơn các sản phẩm tương ứng của những nước khác, trong lúc ấy thì sản phẩm lao động của công nhân nông nghiệp Anh chẳng hạn – mà lao động được trả công tương đối thấp – lại được bán đắt hơn so với sản phẩm của hầu hết các nước khác. Bằng cách so sánh những hàng hóa khác nhau của cùng một nước hay những hàng hóa của những nước khác nhau, tôi có thể chỉ cho các bạn thấy rằng, trừ một vài ngoại lệ có tính chất bề ngoài hơn là có tính chất thực tế, tính trung bình thì một lao động được trả công cao sản xuất ra những hàng hóa giá rẻ và một lao động được trả công thấp lại sản xuất ra những hàng hóa giá đắt. Dĩ nhiên, điều đó quyết không chứng minh rằng giá cả cao của lao động trong trường hợp này và giá cả thấp của lao động trong trường hợp kia là những nguyên nhân của những kết quả hoàn toàn đối lập nhau ấy, nhưng dẫu sao điều đó cũng chứng minh rằng giá cả các hàng hóa không phải do giá cả lao động quyết định. Nhưng chúng ta hoàn toàn không cần dùng đến phương pháp kinh nghiệm chủ nghĩa ấy.

 

 Tuy vậy có thể là ai đó sẽ bắt bẻ tôi rằng ông Weston không đề ra cái giáo điều: “Giá cả hàng hóa là do tiền công quy định hay điều tiết”. Quả thật, ông ta chưa bao giờ đưa ra một công thức như thế. Thậm chí, ngược lại, ông ta còn nói rằng lợi nhuận và địa tô cũng là những bộ phận cấu thành của giá cả hàng hóa, vì người ta đều lấy trong giá cả các hàng hóa để trả không những tiền công của công nhân mà cả lợi nhuận của nhà tư bản và địa tô của địa chủ nữa. Nhưng theo ý kiến của ông ta thì giá cả do cái gì tạo thành? Trước hết là tiền công. Rồi một tỷ lệ phần trăm được cộng thêm vào giá cả vì lợi ích của nhà tư bản và một tỷ lệ phần trăm khác cũng được cộng thêm vào đó vì lợi ích của địa chủ. Giả định rằng tiền công trả cho một lao động dùng để sản xuất ra một hàng hóa là 10. Nếu tỷ suất lợi nhuận là 100% so với tiền công đã trả thì nhà tư bản sẽ cộng thêm 10 vào số tiền công đã trả, và nếu tỷ suất địa tô cũng là 100% so với tiền công đã trả thì còn sẽ cộng thêm 10 nữa và tổng số giá cả của hàng hóa sẽ là 30. Nhưng việc quy định giá cả như vậy sẽ chỉ có nghĩa là giá cả được quy định bởi tiền công. Nếu trong trường hợp nói trên, tiền công tăng lên thành 20 thì giá cả hàng hóa sẽ tăng lên đến 60, v.v.. Do đó, tất cả các tác giả cũ viết về các vấn đề kinh tế chính trị, những người đã đưa ra cái giáo điều cho rằng tiền công điều tiết giá cả, đều cố chứng minh điều đó bằng cách coi lợi nhuận và địa tô chỉ là những tỷ lệ phần trăm được cộng thêm vào tiền công. Cố nhiên, không một ai trong bọn họ có thể quy những giới hạn của những tỷ lệ phần trăm thu thêm ấy thành một quy luật kinh tế nào đó. Trái lại, hình như họ cho rằng lợi nhuận được quy định bởi truyền thống, tập quán, ý muốn của nhà tư bản hay bởi một phương pháp nào khác cũng có tính chất tùy tiện và không thể giải thích được như thế. Khi khẳng định rằng lợi nhuận là do sự cạnh tranh giữa các nhà tư bản quyết định, thì như vậy là họ chẳng nói lên được một điều gì cả. Rõ ràng là sự cạnh tranh ấy san bằng những tỷ suất lợi nhuận khác nhau trong các ngành sản xuất khác nhau nghĩa là quy những tỷ suất ấy thành một mức trung bình thống nhất, nhưng sự cạnh tranh ấy hoàn toàn không thể quyết định được bản thân mức ấy, hay tỷ suất lợi nhuận phổ biến.

 

 Khi nói rằng giá cả của những hàng hóa là do tiền công quyết định, thì chúng ta định nói gì? Vì tiền công chỉ là một tên gọi của giá cả lao động cho nên nói như thế là chúng ta muốn nói rằng giá cả các hàng hóa là do giá cả lao động điều tiết. Vì "giá cả" là giá trị trao đổi, – và khi tôi nói đến giá trị, tôi bao giờ cũng muốn nói đến giá trị trao đổi, – là giá trị trao đổi được biểu hiện bằng tiền, cho nên luận điểm đó quy lại là "giá trị các hàng hóa là do giá trị của lao động quyết định", hay "giá trị của lao động là thước đo chung của giá trị".

 

 Nhưng trong trường hợp đó thì bản thân "giá trị của lao động" được quyết định như thế nào? Ở đây, chúng ta đi tới chỗ bế tắc. Cố nhiên là chúng ta sẽ rơi vào chỗ bế tắc nếu chúng ta cố lập luận một cách logic. Nhưng những người bảo vệ học thuyết đó không quan tâm lắm đến logic. Chúng ta hãy lấy ông bạn Weston của chúng ta làm ví dụ. Thoạt tiên, ông ta giải thích cho chúng ta rằng tiền công quyết định giá cả các hàng hóa và vì vậy, khi tiền công tăng lên thì giá cả cũng phải tăng lên. Sau đó ông ta lại bắt đầu chứng minh cho chúng ta thấy rằng việc tăng tiền công không đem lại một sự ích lợi nào cả, vì giá cả hàng hóa sẽ tăng lên và vì trên thực tế tiền công được đo bằng giá cả những hàng hóa mà tiền công được chi để sản xuất ra chúng. Như vậy là chúng ta bắt đầu với lời khẳng định rằng giá trị của lao động quyết định giá trị của hàng hóa, và chúng ta kết thúc bằng lời khẳng định rằng giá trị của hàng hóa quyết định giá trị của lao động. Như vậy là chúng ta cứ loay hoay trong một vòng luẩn quẩn và chẳng đi đến một kết luận nào cả.

 

 Xét về toàn bộ, rõ ràng là nếu chúng ta lấy giá trị của một hàng hóa nào đó, chẳng hạn như của lao động, lúa mì, hay một hàng hóa nào khác, làm thước đo chung của giá trị và làm cái điều tiết giá trị thì chúng ta chỉ chuyển sự khó khăn sang chỗ khác mà thôi, vì chúng ta xác định một giá trị này bằng một giá trị khác, giá trị khác này đến lượt nó cũng lại cần phải được xác định.

 

 Dưới biểu hiện trừu tượng nhất của nó, cái giáo điều cho rằng "tiền công quyết định giá cả các hàng hóa", quy lại là: "giá trị quyết định giá trị", và lối nói trùng lặp đó có nghĩa là trên thực tế chúng ta không biết gì về giá trị cả. Nếu chúng ta thừa nhận tiền đề đó thì mọi lập luận về những quy luật phổ biến của khoa kinh tế chính trị sẽ trở thành những lời nói ba hoa rỗng tuếch. Cho nên, công lao to lớn của Ri-các-đô là ở chỗ trong cuốn "Những nguyên lý của khoa kinh tế chính trị" của ông, xuất bản năm 1817, ông đã hoàn toàn đập tan cái quan niệm sai lầm cũ, thông dụng và đã lỗi thời, nói rằng “tiền công quyết định giá cả”[8], quan niệm mà Adam Smith và những người Pháp tiền bối của ông đã bác bỏ trong những phần thật sự khoa học của những công trình nghiên cứu của họ, nhưng lại được nhắc lại trong những chương nông cạn hơn và có tính chất tầm thường hoá của họ.

 


*Chú thích:

[8] D.Ricardo. "Nguyên lý của khoa kinh tế chính trị và thuế khóa", London, 1821, tr.26. Tập sách này được xuất bản lần thứ nhất năm 1817 ở London – 168.

Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận