TỪ N.E.P TỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI – Bài giảng số 6

HỆ THỐNG KINH TẾ Ở NGA SAU KHI KẾT THÚC CỘNG SẢN THỜI CHIẾN 

Sự phục hồi nông nghiệp ở Nga trong thập kỷ đầu tiên của Chính sách kinh tế mới


Trong thời kỳ được gọi là “Cộng sản thời chiến” kéo dài tới tận mùa xuân năm 1921, cơ cấu kinh tế của nước Nga Xô Viết đơn giản hơn so với thời kỳ sau đó. Nếu chúng ta loại trừ những người du mục (người Kirghiz, Kalmucks, Buryats, v.v.), thì có hai loại hình kinh tế khác nhau đang tồn tại trong nước – một là công nghiệp quy mô lớn xã hội chủ nghĩa, với định hướng sản xuất và phân phối sản phẩm đều có kế hoạch; hai là sản xuất của nông dân và thợ thủ công, với hệ thống phân phối thông qua thị trường. Nỗ lực của nhà nước Xô viết nhằm thiết lập một hệ thống phân phối nông sản bắt buộc mà không làm thay đổi hệ thống sản xuất tiểu tư sản đã kết thúc trong thất bại. Thay vì loại bỏ bắt buộc nông sản dư thừa ra khỏi nông thôn và phân phối chúng theo kế hoạch cùng với các sản phẩm của công nghiệp thành thị; có nghĩa là, thay vì làm cho nền sản xuất tiểu tư sản thích ứng được với hệ thống sản xuất xã hội chủ nghĩa quy mô lớn, thì bây giờ, ngược lại, cần phải khiến cho sản xuất quy mô lớn của nhà nước thích ứng được với cách phân phối theo thị trường của nền kinh tế tiểu tư sản. Nền sản xuất xã hội chủ nghĩa lúc này phải thuận theo nông dân và thợ sản xuất thủ công trên cơ chế phân phối thị trường, tức là, trước hết, theo cơ chế của kinh tế tư bản quy mô lớn. Điều này tất yếu kéo theo sự xuất hiện của nhiều loại hình trong cơ cấu kinh tế của đất nước. Công nghiệp nhà nước quy mô lớn, ở một mức độ đáng kể, bắt đầu hoạt động vì thị trường. Nhưng nền kinh tế nhà nước nói chung, ở một mức độ nhất định, vẫn là nền kinh tế được lên kế hoạch. Điều khác biệt ở chỗ, kế hoạch ấy phải phù hợp với thị trường, và tất cả các dự thảo kế hoạch chắc chắn chỉ mang tính tương đối. Đây là nguyên nhân dẫn đến sự đa dạng trong nền kinh tế. Bên cạnh các cơ quan quản lý tư bản chủ nghĩa như ngân hàng nhà nước và mạng lưới các tổ chức tín dụng trực thuộc nó, cùng với các sở giao dịch chứng khoán, nghiệp đoàn, v.v., còn tồn tại các cơ quan nhà nước có nhiệm vụ hướng dẫn nền kinh tế đi theo đúng kế hoạch như Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, Hội đồng tối cao của Nền Kinh tế Quốc dân, Ủy ban Lương thực Nhân dân, các cơ quan phân phối tiền lương theo kế hoạch (Tsekfond, Hội đồng Ấn định Lương Tối cao). Tính đa dạng càng được tăng cường bởi vì, cùng với các doanh nghiệp nhà nước thuần túy, các công ty và doanh nghiệp hỗn hợp tư bản nhà nước bắt đầu hình thành, và sau đó là hợp tác xã, không chỉ đóng một vai trò rất lớn trong lĩnh vực phân phối mà còn kiểm soát nhiều doanh nghiệp sản xuất. Lần lượt, các doanh nghiệp được nhượng quyền thương mại bắt đầu xuất hiện, với vốn nước ngoài đầu tư vào họ. Tư bản tư nhân tự phát phát triển và củng cố trong lĩnh vực thương mại, và giành quyền kiểm soát chủ yếu đối với thương mại bán lẻ vừa và nhỏ. Cuối cùng, hình thức kinh tế chủ yếu là kinh tế tiểu nông ở nông thôn và kinh tế tiểu thủ công ở thành thị. Ở mức độ thấp nhất là nền kinh tế gia trưởng của những người du mục ở vùng biên. Một số ý kiến đưa ra cái tên “chủ nghĩa tư bản nhà nước” cho toàn bộ loại hình kinh tế hỗn hợp và đa dạng này, song không được ghi nhận. Cái tên này không phù hợp vì nó hoàn toàn không bao hàm được toàn bộ sự đa dạng của các mối quan hệ giữa các nền kinh tế; và là một cái tên đánh cắp từ một hình thức kinh tế khác – chủ nghĩa tư bản nhà nước thực sự – một hệ thống trong đó nhà nước tư bản liên kết với sản xuất tư bản tư nhân, được tổ chức qua các quỹ tín thác và đứng đầu là các ngân hàng. Chủ nghĩa tư bản tồn tại khi đó ở Nga chủ yếu phát triển trên đất do thương mại tư nhân cung cấp, nó có rất ít đặc điểm “nhà nước”, và nhà nước khi đó không có điểm chung nào với chủ nghĩa tư bản, vì nó là một tổ chức của giai cấp vô sản với lý tưởng tiêu diệt chủ nghĩa tư bản. Loại hình kinh tế hỗn hợp này có thể được mô tả dưới dạng một kim tự tháp được chia thành nhiều phần, với phần chính (chiếm bốn phần năm giá trị tổng sản lượng hàng năm) bao gồm hai chục triệu doanh nghiệp tiểu tư sản, với một phần chân đáy là kinh tế phụ quyền – bộ lạc. Trên nền tảng tiểu tư sản này nảy sinh một khu vực hẹp hơn rất nhiều, gồm các doanh nghiệp tư bản vừa và nhỏ trong thương mại và công nghiệp, không do nhà nước quản lý, và trên đó là một khu vực hẹp hơn của các doanh nghiệp tư bản dưới sự điều tiết của nhà nước (các công ty hợp doanh, v.v.). Tiếp trên đó là khu hợp tác sản xuất và hợp tác xã trao đổi; và cuối cùng, phần trên cùng của kim tự tháp, một khối quan hệ xã hội chủ nghĩa, không chiếm ưu thế nhưng đang đấu tranh để trở thành ưu thế. Nói một cách tổng thể, toàn bộ hệ thống này có thể được gọi theo hai mắt xích cơ bản của nó, mắt phía trên, xã hội chủ nghĩa và mắt phía dưới, liên kết sản xuất hàng hóa nhỏ, là hệ thống kinh tế hàng hóa – xã hội chủ nghĩa.

Biểu đồ

Ban đầu, khó có thể phân biệt các loại hình kinh tế khác nhau này; trong tương quan với nhau, chúng không chiếm những vị trí xác định và không thiết lập những mối quan hệ kinh tế chặt chẽ. Nhưng thời gian sau đó, điều này đã đạt được khá nhanh chóng. Công nghiệp quy mô lớn và giao thông vận tải hầu như hoàn toàn nằm trong tay nhà nước vô sản, trong khi công nghiệp quy mô vừa được chia thành hai nửa, gồm quốc doanh và tư nhân, chủ yếu trên cơ sở tư nhân thuê lại các xí nghiệp của nhà nước, các ác-ten [1] và các hợp tác xã. Thương mại bán buôn chủ yếu nằm trong tay các cơ quan thương mại nhà nước, các công ty thương mại hỗn hợp và hợp tác xã, và chỉ một phần nằm trong tay của các thương gia tư nhân. Nói cách khác, thương mại quy mô lớn đã được xã hội hóa ở một mức độ đáng kể, hay chịu sự quản lý của nhà nước hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp. Mặt khác, buôn bán quy mô nhỏ chủ yếu nằm trong tay tư nhân và một phần là của các hợp tác xã. Gần như toàn bộ nông nghiệp và công nghiệp quy mô nhỏ nằm trong tay các nhà sản xuất hàng hóa độc lập.

Các loại hình kinh tế này bắt đầu được liên kết với nhau chủ yếu thông qua thương mại. Trong thời kỳ cộng sản thời chiến, có một sự phân hóa rõ rệt giữa công nghiệp quốc doanh quy mô lớn và kinh tế nông dân. Một nhà máy cụ thể, chẳng hạn như một nhà máy sản xuất giày dép, sẽ giao toàn bộ sản phẩm của mình cho nhà nước. Sản phẩm này chủ yếu phục vụ quân đội, hoặc được phân phối cho công nhân như những chiếc ủng lao động, v.v.; chỉ một phần nhỏ tìm được đường vào nông thôn. Ngay cả khi đó, nó không được phân phối theo nguyên tắc người đã cung cấp nhiều ngũ cốc nhất cho các thành thị sẽ nhận được nhiều mặt hàng do thành thị sản xuất nhất, mà thường theo nguyên tắc ngược lại: người nghèo và đã được miễn trừ việc giao nông sản bắt buộc có nhiều cơ hội nhận được sản phẩm hơn là phú nông đã cống hiến thặng dư của mình cho các thành thị. Mối liên hệ chặt chẽ giữa công nghiệp đô thị và nông nghiệp đã được thực hiện thông qua nhà nước. Không còn tồn tại mối liên hệ trực tiếp giữa kinh tế nông dân và công nghiệp quy mô lớn, ngoại trừ việc công nhân bán một phần nhỏ sản phẩm mà họ được trả như tiền công, và những gì đã bị tham ô rồi bán bất hợp pháp cho người dân ở nông thôn.

Ngược lại, theo chính sách kinh tế mới, một xí nghiệp được kết nối bằng hàng trăm mối liên hệ với kinh tế nông dân và với các xí nghiệp nhà nước và tư nhân. Trước hết, xí nghiệp này là một đơn vị trong ủy thác dệt may, chương trình sản xuất do Ủy ban Kế hoạch Nhà nước đặt ra, với vốn tín dụng của Ngân hàng Nhà nước, và được đưa vào hệ thống kinh tế nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nhưng đồng thời nó cũng có những mối liên hệ sống động với phần phi xã hội hóa của nền kinh tế: nó bán vải bông in cho nông dân thông qua các hợp tác xã, nó mua ngũ cốc hoặc lanh từ họ, nó nuôi dưỡng thương mại tư nhân bằng hoạt động buôn bán bông, thông qua điều này và thông qua các hợp tác xã, nó liên kết với các doanh nghiệp tư nhân dưới mọi hình thức; nó lấy bông từ nông dân bản địa của Turkestan; v.v. Và cũng như vậy, một người bao thầu công việc đun xà phòng, đó vừa là một đơn vị trong khu vực phi xã hội hóa, lại vừa được kết hợp vào trong toàn bộ hệ thống kinh tế. Anh ta bán xà phòng không chỉ cho nông dân mà còn cho các tổ chức nhà nước, anh ta mua nguyên liệu không chỉ từ nông dân mà còn từ kho bán buôn của nhà nước, anh ta vận chuyển hàng hóa của mình bằng đường sắt nhà nước, anh ta vay tiền từ ngân hàng nhà nước hoặc từ một tổ chức tín dụng kết nối với ngân hàng nhà nước. Theo cách này, các hệ thống kinh tế vốn khác biệt và hầu như đối kháng về xu hướng đã được liên kết với nhau về mặt kinh tế.

Các bạn chắc chắn sẽ quan tâm đến việc làm thế nào mà hình thức kinh tế xã hội chủ nghĩa, ở giữa các hình thức kinh tế khác nhau, lại trở thành hình thức chủ đạo; ban đầu phần còn lại của kinh tế phụ thuộc vào nó, và sau đó tự nó hấp thụ toàn bộ nền kinh tế. Sự chủ đạo này có được nhờ cuộc đấu tranh lâu dài và kiên cường, và như vậy ngay từ giai đoạn đầu, thắng lợi không đến từ sự phổ biến của hình thái kinh tế xã hội chủ nghĩa.

Đã có một thời kỳ sản xuất công nghiệp quy mô lớn – khi vừa rời khỏi giai đoạn cộng sản thời chiến, hoàn toàn bất lực trong cơ chế trao đổi hàng hóa lấy tiền. Đôi khi nó bị đánh bại bởi quá trình sản xuất tiểu thủ công, ví như đôi khi một con gấu mạnh mẽ có thể bị một bầy chó nhỏ làm cho kiệt sức. Sản xuất tiểu thủ công cướp bóc từ nó và chế giễu nó; một số nhà tư bản trước đây, nắm giữ các vị trí quản lý công nghiệp, đã làm mọi cách để gây hại cho ngành công nghiệp nhà nước quy mô lớn và thu lợi từ những kẽ hở do sự thiếu khả năng quản lý của người lao động, đặc biệt ở mặt thương mại. Công nhân trong ngành công nghiệp quy mô lớn đôi khi kiếm được ít hơn những người lao động thủ công, chưa nói gì đến những thợ thủ công độc lập. Trong những ngày đó, người ta đã nghe thấy những xôn xao trong dư luận, thậm chí chống đối ngay cả trong một bộ phận nhất định của những người Cộng sản – thực sự thì đó chỉ là một bộ phận rất nhỏ, và chỉ gồm giới trí thức: ‘chúng ta nên trả lại nhiều hơn, nếu không phải là tất cả, cho các nhà tư bản dưới hình thức hợp đồng cho thuê, vì dù sao chúng ta cũng đâu có thể quản lý được.’ Nhưng vào thời điểm đó, họ nghĩ nhiều hơn là viết ra, như những hồi ký từ thời kỳ này đã tiết lộ cho chúng ta. Tuy nhiên, giai đoạn quan trọng này rồi cũng kết thúc. Sản xuất quy mô lớn đã đứng vững, và từng chút một, từng chút một, những kẻ tầm thường đã tôn trọng nhường chỗ cho nó – những kẻ cho đến thời điểm đó đã sống bằng cách lãng phí sức lao động, ăn cắp từ ngành công nghiệp quy mô lớn thông qua vị trí gần như độc quyền trên thị trường tự do.

Trong những năm đầu tiên của Chính sách Kinh tế Mới, nền kinh tế của đất nước đã phấn đấu, theo một cách không có kế hoạch, để khôi phục vị thế trước chiến tranh. Tỷ trọng kinh tế trước chiến tranh cung cấp mô hình cho việc xây dựng toàn bộ đời sống kinh tế. Tất nhiên, với sự khác biệt là bây giờ toàn bộ đỉnh cao của sản xuất – công nghiệp và giao thông quy mô lớn, toàn bộ hệ thống tín dụng và một phần thương mại bán buôn – nằm trong tay một giai cấp mới và nền kinh tế được điều tiết nhiều hơn so với chủ nghĩa tư bản trong lịch sử.

Tôi đã cho các bạn biết những hình thức kinh tế khác nhau chiếm những vị trí nào trong nền kinh tế. Bây giờ, từ xuất phát điểm đó, nền kinh tế phát triển tiếp. Trong những năm đầu tiên, những thay đổi trong nền kinh tế chỉ mang tính định lượng; chỉ sau này số lượng mới chuyển thành chất lượng. Các hình thức kinh tế mà tôi mô tả đã được thiết lập trong thời kỳ Cộng sản thời chiến, và có nhiều đặc điểm. Bản thân các hình thức này chỉ bắt đầu thay đổi trong giai đoạn phát triển thứ hai của nền kinh tế, khi đó, chúng đã trở nên quá nhỏ hẹp để tiến xa hơn.

Ngay trong năm kinh tế đầu tiên, sự phụ thuộc của phát triển công nghiệp vào tiến bộ của nông nghiệp đã trở nên rõ ràng. Có những tháng, mặc cho nạn đói hàng hóa khủng khiếp và sự cạn kiệt của tất cả hàng hóa dự trữ trong nước, đặc biệt là ở nông thôn; các ngành công nghiệp quy mô lớn đã không thể phân phối sản phẩm của mình, do mùa màng thất bát. Đây không phải tình huống có thể được giải thích đơn thuần bởi sự kém hiệu quả của bộ máy thương mại. Ngành công nghiệp chỉ có thể phát triển với điều kiện là cơ sở nông nghiệp của nó được mở rộng. Kinh nghiệm cho thấy rằng, khi toàn bộ nền nông nghiệp của đất nước sản xuất ra 32,8 triệu tấn ngũ cốc, thì ngành công nghiệp tồn tại với một chân trong nấm mồ. Quả vậy, các ngành quan trọng nhất của công nghiệp và giao thông vận tải thu được phần lớn thực phẩm không phải bằng cách mua từ nông dân mà từ các nguồn lực do thuế hiện vật cung cấp. Nhưng số thu bằng thuế hiện vật cũng chủ yếu phụ thuộc vào lượng sản xuất của nông nghiệp nói chung.

Vụ mùa thuận lợi năm 1922 đã mở ra một thời kỳ tiến bộ của toàn bộ nền kinh tế. Về cơ bản, các yếu tố của sự tiến bộ này đã được quan sát thấy vào năm 1921, nhưng nạn đói đã làm gián đoạn quá trình và ngành công nghiệp chỉ thực sự bắt đầu chuyển mình nhanh chóng và liên tục vào mùa thu năm 1921.

Vụ mùa năm 1922 thu hoạch nhiều hơn so với vụ trước hơn 13 triệu tấn hạt. Điều này có nghĩa là ngành công nghiệp có thể mở rộng đáng kể vượt quá giới hạn của năm 1921, trong chừng mực không phụ thuộc vào các điều kiện khác, chẳng hạn như sự sẵn có của nguyên và nhiên liệu, v.v…

Kinh tế nông dân bắt đầu phục hồi khá nhanh. Sau khi bị giảm gần 30% so với trước chiến tranh, diện tích gieo trồng đã bắt đầu tăng từ năm này qua năm khác. Ở các vùng phía bắc của đất nước, những vùng đất trước đây chưa từng được canh tác nay đã được cày cấy. Thành công của những cải tiến cơ bản đầu tiên về canh tác của Ban nông nghiệp Nhân dân đã làm tăng niềm tin của nông dân vào ngành nông học và khuyến khích một sự quan tâm lớn hơn vào những cải tiến tiếp theo. Hơn nữa, mầm mống của một lối sống nông nghiệp mới bắt đầu đột phá theo từng đợt, ở nhiều vùng và các huyện khác nhau; trong bối cảnh thuận lợi – sự chuyển đổi của các cộng đồng nông dân thành các khu định cư riêng biệt và các trang trại riêng lẻ. Nền kinh tế cũng tiến triển ở những xã và ác-ten chưa bị tan rã dưới ảnh hưởng của Chính sách Kinh tế mới. Sau thành công của các chiến dịch quy mô lớn đầu tiên nhằm sớm cày xới đất vụ thu, gieo hạt và gieo cây trồng chịu hạn, một cuộc đấu tranh bắt đầu ở miền Nam và Đông Nam Bộ để tiếp tục thực hiện quy mô lớn, từ hệ thống ba ruộng sang đa ruộng, tận dụng sức lan tỏa ngày càng rộng của việc trồng cây lấy củ tạo điều kiện thuận lợi cho việc chăn nuôi đại gia súc, tăng năng suất sữa bò và tăng lượng phân gia súc; và tại một số nơi, trồng trọt luống và gieo hạt theo dải đã bén rễ. Theo cả nghìn cách, thông tin mới về cải tiến canh tác đã đến được với vùng nông thôn. Các chiến dịch nông nghiệp của Ban nông nghiệp Nhân dân, các bài báo trên báo, tạp chí nông nghiệp, tập sách nhỏ về các chủ đề nông nghiệp, thí nghiệm thành công ở Nông trường quốc doanh, bài giảng của các nhà nông học, triển lãm nông nghiệp do các huyện tổ chức và trên quy mô toàn nước Nga, sáng kiến ​​của những người lính Hồng quân, những người đã tham dự các bài giảng về nông học trong thời gian họ phục vụ quân ngũ, sáng kiến ​​của những cựu tù nhân chiến tranh, những người đã nhìn thấy và làm chủ các phương pháp canh tác tiên tiến ở Đức và Áo – từ tất cả những nguồn này, kiến ​​thức mới cần thiết đã thấm vào các vùng nông thôn. Kiến thức này đã được gieo lên mảnh đất màu mỡ, vốn được cày xới sẵn bởi cuộc cách mạng vĩ đại của công nhân và nông dân. Chiến tranh thế giới, cách mạng và nội chiến đã thử thách hàng triệu người theo cách này hay cách khác, mở rộng tầm nhìn và thay đổi hoàn toàn tâm lý trì trệ, bảo thủ của nông dân Nga. Các làng mạc không chỉ được đánh thức về đời sống chính trị mà còn cả về những phương pháp nông nghiệp mới. Trong suốt một thế kỷ, cách thức làm việc của đại đa số nông dân đã hầu như không thay đổi, nhưng giờ đây, chỉ trong một thập kỷ một cuộc cách mạng toàn diện đã đến. Tầng lớp nông dân say mê mở rộng diện tích gieo trồng và tăng năng suất cây trồng; nạn đói ở vùng Volga có một ý nghĩa tích cực nhất định khi nó tăng cường mạnh mẽ sự quan tâm của đông đảo nông dân về mọi biện pháp nhằm làm cho hạn hán ít nguy hiểm hơn đối với nền kinh tế của họ.

Một yếu tố mạnh mẽ nhất đã kích thích mở rộng diện tích gieo trồng và tăng năng suất cây trồng là sự phát triển nhanh chóng của thị trường hàng hóa ở thành thị và ngoại thương. Trong thời kỳ Cộng sản thời chiến, người nông dân không những không có quyền bán ngũ cốc, vì tất cả thặng dư đều phải nộp lại cho nhà nước, mà trong hầu hết những trường hợp, anh ta còn chẳng có hứng thú đặc biệt nào với việc bán nó, vì thị trường thành thị không thể cung cấp cho anh ta lựa chọn hàng hóa mà anh ta cần. Cùng với tình trạng suy dinh dưỡng do mất mùa do nền kinh tế bị gián đoạn, hiện tượng ngược lại cũng được quan sát thấy ở nông thôn: nông dân nỗ lực tiêu thụ tất cả những gì họ sản xuất ra, bởi vì hầu như không thể bán, hoặc bán cùng không có lãi đủ để mua hàng hóa họ cần. Tuy nhiên, giờ đây, mỗi pood ngũ cốc thừa bán đi đều đem lại số tiền giúp mua thêm tất cả những thứ mà người nông dân cần từ thị trường. Hơn nữa, kim ngạch ngoại thương tăng lên theo từng năm. Nông dân bây giờ cũng có khả năng mua các sản phẩm nước ngoài, đặc biệt là máy móc nông nghiệp. Nhu cầu và giá cả cùng tăng đối với nguyên liệu nông nghiệp và cây trồng kỹ thuật, đặc biệt là lanh, gai dầu, len, da sống, v.v. Nhu cầu này không chỉ đến từ các ngành công nghiệp trong nước đang phát triển mà còn từ các ngành công nghiệp nước ngoài. Và tới lượt những điều này gây ảnh hưởng rất lớn đến việc khôi phục những cây trồng đã bắt đầu suy tàn, cụ thể là những cây trồng kỹ thuật. Những cây trồng này đã bị loại bỏ ở miền Bắc và Tây Bắc trong cuộc nội chiến – thay thế bởi cây ngũ cốc, vì lanh và gai dầu không thể bán được ngay cả với giá gốc, trong khi đó ngũ cốc lại khan hiếm. Thay vì bán cây kỹ thuật để mua ngũ cốc, nông dân miền Bắc và Tây Bắc chuyển sang trồng ngũ cốc thay cho cây kỹ thuật. Điều này có thể tiếp tục chỉ khi ngành công nghiệp ở trong tình trạng tan rã và lượng dự trữ từ trước còn đủ cho những đơn vị vẫn đang hoạt động, và chỉ khi không có ngoại thương do bị phong tỏa. Tuy nhiên, giờ đây, tỷ lệ sản xuất từ cây trồng kỹ thuật và buôn bán với nước ngoài đã bắt đầu được khôi phục như trước chiến tranh: giá các sản phẩm này tăng lên và nền kinh tế nông dân ở các vùng vừa được đề cập bắt đầu quay trở lại trồng cây kỹ thuật. Và trong những năm nạn đói, diện tích canh tác ở những vùng này nói chung đã tăng lên so với trước chiến tranh, điều này đã mở ra khả năng cho các huyện này không chỉ đủ sản lượng ngũ cốc mà còn vượt qua sản lượng cây trồng kỹ thuật trước chiến tranh. Sự tái phân bố cây trồng trong nông nghiệp so với thời kỳ Cộng sản thời chiến dẫn đến các khu vực phía Bắc và Tây Bắc sản xuất các loại cây trồng kỹ thuật có lợi hơn về mặt kinh tế, trong khi các khu vực Trung Thổ đất mùn, Nam Bộ và Đông Nam Bộ chuyên môn hóa hoàn toàn vào cây lương thực. Cũng theo cách tương tự, việc trồng bông đã được khôi phục ở Turkestan sau khi bị suy giảm, thay thế bởi ngũ cốc trong những năm nạn đói. Nhìn chung, nền nông nghiệp của Nga, nhờ không ngừng mở rộng diện tích gieo trồng và cải thiện canh tác, đã bắt đầu tăng sản lượng khoảng 10% hàng năm. Việc khôi phục nông nghiệp thành công này đã tạo điều kiện cho sự phát triển công nghiệp trên cơ sở vững chắc, đồng thời xuất khẩu ngũ cốc ra nước ngoài với quy mô lớn.

Trở ngại lớn nhất đối với sự phát triển nông nghiệp ở các huyện trồng ngũ cốc là tình trạng thiếu gia súc và mất mùa liên tục ở một số vùng. Nạn đói ở vùng Volga và miền Nam Ukraine đã dẫn đến sự thiếu hụt trầm trọng động vật kéo. Tất cả những điều này đòi hỏi những nỗ lực phi thường phần nào từ chính quyền Xô Viết trong việc thu mua và phân phối quy mô lớn những động vật này. Ngựa không chỉ được mua ở các huyện nơi những người du mục làm nghề chăn nuôi (vốn cũng đã giảm số lượng do khan hiếm thức ăn gia súc) mà còn ở tất cả các vùng khác của đất nước. Sự thiếu hụt vật nuôi có hai kết quả hoàn toàn khác nhau về quan điểm kinh tế. Một mặt, nó gợi lên mối quan tâm to lớn của nông dân đối với sức kéo và vận tải bằng động cơ, bắt đầu được sử dụng thành công trên các cánh đồng ở miền Nam và Đông Nam. Tại đây đã nảy sinh các doanh nghiệp nhượng quyền nông nghiệp quy mô lớn đầu tiên, chủ yếu được tài trợ bởi vốn đầu tư từ Đức, và sự di dân của những công nhân thất nghiệp châu Âu. Mặt khác, Chính phủ Xô Viết đã gia tăng mua máy kéo cho các hộ nông dân không có ngựa. Một số lượng lớn các đội máy kéo được thành lập để cày xới đất của nông dân trên cơ sở hợp đồng xác định với Chính phủ. Tình trạng thiếu người điều khiển máy đã được khắc phục, một mặt do làn sóng lao động nước ngoài có tay nghề cao di cư đến Nga do ảnh hưởng của tình trạng thất nghiệp trong nước hay vì lý do giai cấp và ý thức hệ; và, mặt khác, bởi sự phát triển của giáo dục hướng nghiệp kỹ thuật ở Nga. Lúc đầu, đảng viên đảng xã hội chủ nghĩa (SR) và những người Narodnik trong số các nhà nông học và kinh tế học đã thể hiện một thái độ mỉa mai và hoài nghi đối với khả năng phát triển động cơ sức kéo và vận tải ở Nga, hơn thế nữa bởi vì thành công theo hướng này đã gióng lên hồi chuông hy vọng của tiểu tư sản phản động về khả năng tồn tại của kinh tế nhỏ đơn lẻ. Nhưng những năm mở rộng mạnh mẽ động cơ sức kéo và vận tải đã chứng minh khả năng ứng dụng toàn diện ở Nga, đặc biệt là ở Đông Nam, khu vực không chỉ thuận lợi cho việc sử dụng động cơ do điều kiện địa chất mà còn do vị trí nằm trên con đường xăng dầu được vận chuyển từ Baku lên sông Volga.

Việc thiếu gia súc đã tạo ra một khuynh hướng khác, tương phản trong các hộ gia đình nông dân – điều làm nức lòng những người tin vào lý tưởng tiểu tư sản. Khi không có đủ gia súc kéo cũng như máy kéo, các hộ nông dân tạm thời chuyển hướng sang kiểu nông nghiệp của Trung Quốc hoặc kiểu trồng vườn chợ như ở các vùng ngoại ô. Ở những khu vực này, họ bắt đầu trồng lúa mì trên luống. Trong trường hợp không có sức kéo của ngựa, cày thường được thay thế bằng thuổng sắt và cuốc. Trên vùng đất mùn màu mỡ, kiểu canh tác này đã cho kết quả tuyệt vời nếu nhìn vào năng suất cây trồng trên mỗi desyatin[2], nhưng mặt khác, nó dẫn đến sự thu hẹp diện tích gieo trồng và biến các diện tích không được canh tác thành đất hoang. Nhưng hệ thống kinh tế này do đó không thể tồn tại lâu dài. Ngay sau khi mỗi hộ gia đình có được một con ngựa, họ đã từ bỏ hệ thống này, chỉ giữ lại một số mặt tích cực của việc thâm canh này cho một phần nhỏ diện tích gieo trồng.

Do đó, chúng ta thấy rằng trong thời kỳ đầu tiên của quá trình phát triển nông nghiệp, xuất hiện trên hết là việc khôi phục nền nông nghiệp tiểu nông về hiện trạng trước chiến tranh, và sau đó là những cải tiến cơ bản mà trước đây chưa được thực hiện ở nông thôn. Ngoại lệ duy nhất là những khu vực phát triển sử dụng các phương tiện cơ giới và những nơi vận dụng thành công hệ thống kinh tế đa ruộng. Về tổng thể, cơ sở kỹ thuật của kinh tế tiểu nông vẫn giữ như trước.

Nhưng tất cả những tiến bộ này đòi hỏi những nỗ lực to lớn của chính những người nông dân và của Chính phủ Xô Viết. Sự giúp đỡ quan trọng nhất Chính phủ Xô Viết dành cho nền kinh tế nông dân là cho vay hạt giống, đặc biệt là ở những nơi mùa màng thất bát, và các hình thức tín dụng nông nghiệp dài hạn. Khoản tín dụng này đã đóng một vai trò rất lớn trong cả việc phục hồi nền kinh tế nông dân, đặc biệt là các mảng còn yếu kém, và trong việc thiết lập mối quan hệ kinh tế chặt chẽ giữa kinh tế nông dân với ngành công nghiệp quy mô lớn và hệ thống ngân hàng của Chính phủ Liên Xô. Khoản tín dụng ban đầu không lớn, song nó tăng lên theo từng năm, đặc biệt là khi thu hút thêm vốn nước ngoài. Tín dụng dài hạn lúc đầu được cấp thông qua bộ phận tín dụng dài hạn đặc biệt của Ngân hàng Nhà nước. Sau đó, bộ phận này được chuyển đổi thành một ngân hàng cổ phần nông nghiệp đặc biệt, trong đó vai trò chính chỉ sau Ngân hàng Nhà nước là Ban Nông nghiệp Nhân dân. Các cổ đông cũng là những quỹ tín thác có sản phẩm được cung cấp trên cơ sở tín dụng dài hạn cho nông dân, đặc biệt là các quỹ tín thác tập đoàn máy móc nông nghiệp và các nhà máy sản xuất phân bón. Ngân hàng nông nghiệp phân phối tiền và cả hàng hoá hiện vật như máy móc nông nghiệp và phân bón. Khi tiền tệ nhà nước vẫn chưa ổn định, để không bị thất thoát khoản tiền lớn do đồng rúp giảm giá, cần thiết phải hoàn trả ngân hàng các khoản vay bằng các sản phẩm nông nghiệp thực tế, tương đương khoản vay, cộng với một tỷ lệ phần trăm, thay vì bằng tiền giấy mất giá. Nhưng hình thức trả công này hợp lý không chỉ vì giá trị đồng tiền giảm – nó còn là một biện pháp kinh tế toàn diện quan trọng. Hệ thống cho vay bằng hiện vật và hoàn trả bằng hiện vật đã dẫn đến việc loại bỏ các trung gian thương mại tư nhân giữa nông dân và công nghiệp nhà nước quy mô lớn. Cả hai bên đều được hưởng lợi từ hệ thống này, vì lợi nhuận tiềm năng của người trung gian tư nhân vẫn nằm trong túi của nhà nước và giai cấp nông dân. Mối liên hệ giữa nông dân với ngành công nghiệp nhà nước và ngân hàng nhà nước vẫn được giữ lại ngay cả sau khi tiền giấy đã được ổn định. Kết quả là, nhà nước bắt đầu nhận được một lượng nông sản ngày càng tăng ngoài thuế hiện vật mà không cần qua bất kỳ trung gian nào; và việc nhận được sản phẩm này được đảm bảo ngay cả trong những năm thu hoạch không tốt. Đây là một quỹ ổn định mà ngành công nghiệp đang phát triển có thể dựa vào, cùng với thuế hiện vật. Tất nhiên, nông sản mà ngân hàng nhận được không phải chỉ để chi trả cho những nhà máy làm việc cho tầng lớp nông dân; nó được phân phối cho tất cả các doanh nghiệp công nghiệp có giao dịch với ngân hàng, trực tiếp hay thông qua ngân hàng thương mại và công nghiệp. Nguyên liệu thô nhận được từ nông dân vay vốn được phân phối một phần cho các xí nghiệp quốc doanh và một phần đưa vào quỹ ngoại thương. Từ nguồn này, ngân hàng nhà nước đã thu được ngoại hối để có thể đáp ứng các nghĩa vụ của mình ở nước ngoài. Lập trường là ngân hàng nhà nước cấp tín dụng cho nền kinh tế nông dân, và nhận tín dụng từ các công ty tư bản nước ngoài quy mô lớn, đặc biệt là các công ty bán hàng hóa mà nông dân Nga yêu cầu. Tư bản nước ngoài, lúc đầu cố gắng thiết lập các liên kết trực tiếp với nông thôn, cuối cùng buộc phải sử dụng quan hệ kinh tế với giai cấp nông dân Nga, đại diện bởi các cơ quan của nhà nước Xô viết; trong trường hợp này, là thông qua ngân hàng tín dụng dài hạn. Nguồn lực của ngân hàng nhà nước, cùng với nguồn lực của ngành công nghiệp, cộng với tín dụng nước ngoài và các khoản vay đặc biệt, đã tạo nên quỹ tín dụng dài hạn cho vùng nông thôn Nga. Sự ràng buộc giữa kinh tế nông dân và công nghiệp thông qua hệ thống ngân hàng, hoặc smychka (trái phiếu), như cách Lenin gọi, lúc đầu phát triển chậm và không đáng kể so với khối lượng thương mại thông thường giữa thành thị và nông thôn thông qua hợp tác xã và hệ thống thương mại tư nhân. Tuy nhiên, trong vòng vài năm, sự ràng buộc này bắt đầu có tầm quan trọng ngày càng tăng và chứng tỏ mình là một hình thức phân phối tiến bộ hơn tất cả các hình thức trao đổi khác trong hệ thống kinh tế hàng hóa xã hội chủ nghĩa.

Thương mại tín dụng và tín dụng nói chung (bao gồm cả tín dụng cải tạo đất) được coi là phương tiện hữu dụng nhất để tác động đến sản xuất của nông dân nói chung. Ảnh hưởng của nhà nước xã hội chủ nghĩa đối với nền kinh tế nông dân, vốn đã thất bại dưới hình thức thu thặng dư trong thời kỳ cộng sản thời chiến, đã khả thi hơn trong hình thức mới này – điều hoàn toàn dễ hiểu và được nông dân chấp nhận. Người nhận các khoản hoàn trả vốn vay dần dần trở thành người kiểm soát loại sản phẩm nhận được, và nền kinh tế nông dân phải tự thích ứng với nhu cầu và yêu cầu của khách hàng.

Các bạn sẽ hỏi, những liên kết trung gian giữa ngân hàng tín dụng dài hạn và nền kinh tế nông dân là gì?

Vai trò của các liên kết thấp hơn được thực hiện bởi các hiệp hội tín dụng và cả các tổ chức đặc biệt của những người nhận tín dụng, được thành lập bởi ngân hàng nhà nước và các chi nhánh, tổ chức địa phương – các đơn vị đã sắp xếp việc phân phối tín dụng và kiểm tra việc hoàn trả. Lúc đầu, các phần tử Narodnik phản động và tiểu tư sản đã cố gắng tổ chức các hợp tác xã tín dụng theo đường lối thống nhất, tập trung, và đưa chúng vào các cơ quan nhà nước.

Tuy nhiên, rất nhanh sau đó, kinh nghiệm thực tế cho thấy rằng các cơ quan lãnh đạo của các tổ chức này, và cả của các hợp tác xã nông nghiệp, khá thiếu hiệu quả trong công tác với nhà nước, với tư cách là người sản xuất và giai cấp nông dân, với tư cách là người mua máy móc nông nghiệp, phân bón và các sản phẩm công nghiệp khác. Hơn nữa, rõ ràng là những cơ quan lãnh đạo này đã tham gia vào các âm mưu chính trị, và tạo điều kiện cho sự mất đoàn kết thay vì thống nhất giữa nông thôn và thành thị. Sự tồn tại của các cơ quan hàng đầu này xung đột với nguyên tắc cơ bản của sự hợp tác, cụ thể là không có bất kỳ người trung gian thừa nào giữa người sản xuất và người tiêu dùng. Hơn nữa, trong trường hợp cụ thể này, bản thân các hợp tác xã tín dụng có nguồn lực không đáng kể và không thể sống sót nếu không có tín dụng của nhà nước và vốn nước ngoài, nhất là trong thời kỳ tiền tệ không ổn định. Các hiệp hội tín dụng, hiệp hội nông dân nhận tín dụng và các loại hợp tác xã khác đã tạo thành cơ chế tổ chức trung gian gắn kết nền kinh tế nông dân và sản xuất quy mô lớn xã hội chủ nghĩa. Nhờ có bộ máy này và hệ thống thanh tra ngân hàng được chia nhỏ, rủi ro của ngân hàng nông nghiệp trong hoạt động tín dụng ở nông thôn đã được giảm thiểu.

Để kết thúc mô tả của tôi về nông nghiệp trong thời kỳ này, tôi phải nói thêm một chút về sự phân nhóm xã hội ở nông thôn được quan sát lúc đó. Với sự chuyển đổi sang Chính sách Kinh tế Mới, mâu thuẫn giai cấp ở nông thôn bắt đầu trở nên gay gắt, như một lẽ đương nhiên. Khu vực phú nông còn sót lại sau chính sách của Ủy ban Người nghèo vào năm 1918 đã bắt đầu hồi sinh. Ngoài ra, một tầng lớp những thành phần khá giả xuất hiện từ những người nông dân trung lưu. Bộ phận kinh tế mạnh hơn của tầng lớp nông dân trung lưu đã phát triển – những người sở hữu đầy đủ gia súc và nông cụ; những người ngay từ đầu đã được hưởng lợi từ Chính sách Kinh tế Mới. Với cơ hội mở ra cho thương mại nông sản, phú nông và bộ phận này của tầng lớp nông dân trung lưu là những người đầu tiên lao vào mở rộng diện tích gieo trồng, và họ đã thành những nòng cốt sản xuất nông nghiệp đầu tiên cung cấp cho thị trường, vốn đã gần như biến mất sau khi Cách mạng tháng Mười. [Ghi chú của người dịch: Ở đây, văn bản bị thiếu một dòng] về giá ngũ cốc cao, chính những tầng lớp này đã tận dụng thành công tình hình thuận lợi trên thị trường ngũ cốc. Vào thời điểm mà toàn bộ nông dân đều mong muốn mở rộng diện tích gieo trồng, chỉ có bộ phận dân cư nông thôn này mới có khả năng vật chất tối đa để thực hiện việc mở rộng ấy. Lúc đầu, xu hướng ưa chuộng các trang trại biệt lập đã được quan sát thấy trong nhóm này, họ muốn có đất đai riêng biệt và cùng với đó là nỗ lực mạnh mẽ để cải tiến phương pháp canh tác. Một bộ phận nông dân yếu thế hoặc nghèo khó, hầu hết không có ngựa, lại ở trong một hoàn cảnh khác. Với mong muốn giữ lại tài sản của mình bằng mọi giá, bộ phận nông dân yếu thế đã phải thuê ngựa, vay con giống, v.v., từ nhóm đầu tiên, và theo cách này, họ rơi vào tình trạng phụ thuộc kinh tế nghiêm trọng vào nhóm khá giả. Bộ phận nông dân nghèo nhất không có khả năng lao động trên những dải đất của mình đã cho những người nông dân lân cận thuê những dải đất này. Những người nông dân nghèo này một phần bị biến thành công nhân làm công ăn lương cho phú nông, hoặc họ đến các thị trấn [sic] để tìm công việc nhà nước, chẳng hạn như đốn gỗ, bè gỗ, sửa chữa đường ray xe lửa, v.v.. Với sự hỗ trợ của ngân hàng nông nghiệp, một bộ phận đáng kể nông dân yếu thế đã đứng lên và trở thành nông dân trung lưu. Tuy nhiên, một bộ phận khác lại rơi vào hàng ngũ người nghèo và chỉ bắt đầu phục hồi kinh tế trong giai đoạn tiếp theo, khi sự phát triển hàng loạt của các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp hoàn chỉnh bắt đầu. Nông dân trung lưu nắm giữ tài sản chủ yếu ở nông thôn. Nền kinh tế của tầng lớp dân cư này đã bị ảnh hưởng nặng nề trong cuộc nội chiến và thời kỳ mùa màng thất bát liên tiếp, nhưng bây giờ, trong những năm được mùa, nó đã bắt đầu phục hồi. Những người nông dân trung lưu cũng được hưởng lợi ở một mức độ nào đó từ giá ngũ cốc cao, mặc dù họ bán rất ít, do số lượng thặng dư của họ không đáng kể. Tầng lớp này tỏ ra rất quan tâm đến hợp tác xã, nhưng đối với việc cải tiến các phương pháp canh tác, xét về tổng thể, tầng lớp này tỏ ra thận trọng hơn và kém sinh động hơn so với nhóm đầu tiên, tầng lớp khá giả.

Tuy nhiên, sự phân tầng dân cư nông thôn và sự tách biệt rõ rệt với phần còn lại của các thành phần kinh tế khá giả, cũng như sự phát triển của lao động làm công ăn lương ở nông thôn không thể đạt đến quy mô và hình thức dẫn đến sự xuất hiện đáng kể của các doanh nghiệp tư bản vừa (tất nhiên chúng ta không nói đến các doanh nghiệp nông nghiệp tư bản quy mô lớn của các tư bản nhượng quyền nước ngoài). Lý do như sau. Thứ nhất, sự cai trị chính trị của giai cấp vô sản ở các thành thị, sự hỗ trợ cho các tầng lớp dân cư nghèo ở nông thôn chống lại người giàu và giảm thiểu sự bóc lột. Các cơ quan nhà nước sử dụng các phương tiện pháp lý để hạn chế sự bóc lột những bộ phận nông thôn nghèo nhất, bãi bỏ các hợp đồng nô dịch và do đó cản trở quá trình tích lũy tư bản. Tiếp đó, nhà nước đánh thuế thu nhập lũy tiến không chỉ ở các thành thị mà cả ở nông thôn, do đó tận dụng tích lũy tư bản ở một thái cực của nông thôn cho tích lũy xã hội chủ nghĩa sơ khai. Cuối cùng, lý do thứ ba là sự chậm chạp của toàn bộ quá trình này; ngay cả trong những điều kiện thuận lợi cho chủ nghĩa tư bản nông nghiệp, nó thường kéo dài trong nhiều thập kỷ. Trong trường hợp chúng ta đang xem xét, lịch sử đã không cho phép quá trình này diễn ra quá lâu, bởi vì trong phần thứ hai của giai đoạn chúng ta đang nghiên cứu, đã bắt đầu có ảnh hưởng hữu cơ của sản xuất đô thị quy mô lớn và điện khí hóa đối với nền kinh tế tiểu nông, và do đó, một quá trình chuyển đổi toàn bộ cơ sở kỹ thuật của nền kinh tế nông bắt đầu. Trong những điều kiện đó, quá trình tư bản hóa đã bị đẩy vào một ngõ cụt, do kết quả của việc tổ chức hàng loạt những người sản xuất nông nghiệp thành các hợp tác xã. Nhưng chúng ta đang đi vội một chút; hãy quay trở lại thời kỳ đang được phân tích và xem điều gì đã xảy ra với các trang trại quốc doanh và trang trại tập thể.

Các nông trường quốc doanh, được tổ chức trên cơ sở kinh doanh, sau vài năm phát triển trong điều kiện bình thường, đã sớm đứng vững chắc và bắt đầu có vai trò rất lớn, đặc biệt trong giúp đỡ và cải thiện kinh tế nông dân nói chung. Gần như tất cả họ đều sản xuất hạt giống cải tiến, và bằng cách trao đổi hạt của họ lấy hạt do nông dân sản xuất, họ đã có thể cải thiện năng suất cây trồng của nông dân lên nhiều. Họ có những vườn ươm các giống vật nuôi cải tiến và nhờ mạng lưới trung tâm nhân giống rộng khắp, họ đã giúp cải thiện nhiều hoạt động chăn nuôi của nông dân. Đồng thời, thời kỳ giá ngũ cốc cả trong nước và thị trường thế giới tăng cao rất thuận lợi cho nguồn vốn nhà nước đầu tư phát triển các trang trại trồng trọt quy mô lớn. Nông nghiệp vô sản cũng đạt được thành công lớn, nhiều trang trại quốc doanh mà Ban Nông nghiệp Nhân dân coi là không có lãi bắt đầu tạo ra lợi nhuận khi chúng được chuyển giao cho các nhà máy quản lý.

Đúng vậy, nỗ lực tự phát của các nhà máy để có được trang trại của riêng họ bằng mọi giá trở nên ít gay gắt hơn khi tình trạng khan hiếm ngũ cốc chung trong nước chấm dứt, và khi tỷ lệ giữa giá của các sản phẩm công nghiệp quy mô lớn và giá ngũ cốc đạt mức gần như trước chiến tranh. Các trang trại quốc doanh của công nhân sau đó không có ý nghĩa kinh tế nhiều như ý nghĩa “vệ sinh”, đóng vai trò là điểm tiếp xúc giữa công nghiệp và nông nghiệp và là địa điểm nghỉ mát cho công nhân thành thị và con cái của họ.

Các trang trại nhà nước mới được thành lập ở vùng biên giới có tầm quan trọng lớn; đó là nơi nhà nước canh tác một diện tích đất lớn từ trước đến nay vốn là đất hoang, và nơi một số doanh nghiệp chăn nuôi rất lớn được thành lập, đóng vai trò là nguồn cải tạo ngựa kinh tế nông dân và sản xuất nguyên liệu cho ngoại thương trên quy mô lớn. Việc xây dựng các doanh nghiệp quy mô lớn này đặc biệt được tăng cường trước sự thành công của các doanh nghiệp nhượng quyền quy mô lớn vốn nước ngoài đầu tiên ở miền Nam và Đông Nam nước Nga; các doanh nghiệp này sau khi giao khoán cho nhà nước từ 10 đến 15% sản lượng, vẫn đem lại thu nhập rất đáng kể cho chủ sở hữu.

Trong số 15.000 xã và ác-ten, số liệu đầu thời kỳ đang được nghiên cứu, có một bộ phận đã tan rã, trong đó một số xã viên cũ đã trở thành những nông dân cần cù, cầu tiến và khá giả. Một bộ phận khác của những tập thể này tồn tại cho đến khi toàn bộ nền kinh tế nông dân bắt đầu chuyển đổi sang hợp tác đại chúng, do ảnh hưởng của ngành công nghiệp quy mô lớn và điện khí hóa.

Do đó, trong nửa đầu của thời kỳ được phân tích, nền kinh tế nông dân của Nga không chỉ đạt mức sản xuất trước chiến tranh mà thậm chí còn vượt quá mức đó.

Tuy nhiên, trong thập kỷ đầu tiên này, nền kinh tế nông dân phụ thuộc và nền công nghiệp vô sản quy mô lớn chủ yếu qua phương thức trao đổi (thương mại, tín dụng dài hạn), và chỉ ở một mức độ nhỏ trên cơ sở sản xuất, thông qua các nông trường quốc doanh. Những thay đổi đáng kể hơn chỉ bắt đầu trong thập kỷ thứ hai; điều này đã xảy ra như thế nào, chúng ta sẽ liên hệ lại, sau khi chúng ta xem những gì đã xảy ra trong lĩnh vực công nghiệp nhà nước.


*Chú thích:

  1. Ác-ten là một nhóm công nhân độc lập, tự làm chủ và tự tổ chức, cùng làm việc và chia sẻ số tiền thu được. [Người dịch.]
  2. Một desyatin tương đương với 2,7 mẫu Anh. [Người dịch.]

GIỚI THIỆU

Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận