Bài học từ Công xã
Mỗi lần chúng ta nghiên cứu về lịch sử Công xã, chúng ta lại thấy nó từ một khía cạnh mới, nhờ vào kinh nghiệm có được từ những cuộc đấu tranh cách mạng sau này và trên hết là các cuộc cách mạng mới nhất, không chỉ cách mạng Nga mà cả các cuộc cách mạng ở Đức và Hungary. Chiến tranh Pháp-Phổ là một bùng nổ đẫm máu, báo trước về một cuộc tàn sát trên quy mô thế giới, trong khi đó Công xã Paris là một tia chớp báo hiệu cuộc cách mạng vô sản toàn thế giới.
Công xã đã cho chúng ta thấy chủ nghĩa anh hùng của quần chúng lao động, khả năng đoàn kết thành một khối và sự sẵn sàng của họ để hy sinh thân mình cho ngày mai, nhưng đồng thời nó cũng cho chúng ta thấy sự bất lực của quần chúng để chọn con đường cho họ, sự thiếu quyết đoán của họ trong lãnh đạo phong trào và xu hướng chết người của họ khi trở nên do dự sau những thành công đầu tiên, nhờ đó mà cho phép kẻ thù lấy lại được hơi thở và thiết lập lại chỗ đứng cho nó.
Công xã đến quá muộn. Nó đã có đủ khả năng để nắm quyền vào ngày 4 tháng 9 và nếu điều đó xảy ra nó hẳn sẽ cho phép giai cấp vô sản Paris tự đặt mình vào vị trí dẫn đầu công nhân trên toàn đất nước trong cuộc đấu tranh chống lại tất cả các lực lượng của quá khứ, chống lại Bismarck cũng như Thiers. Nhưng quyền lực đã rơi vào tay đám dân chủ cuội, những đại biểu của Paris. Giai cấp vô sản Paris không có đảng, cũng không có nhà lãnh đạo người mà sẽ gắn kết chặt chẽ nó với những cuộc đấu tranh trước đó. Những nhà yêu nước tiểu tư sản, những người nghĩ rằng mình là những nhà xã hội chủ nghĩa và mưu cầu sự hỗ trợ từ các công nhân đã không thực sự đặt niềm tin nơi họ. Họ đã làm lung lay niềm tin của giai cấp vô sản vào chính họ, họ liên tục săn đón các luật sư nổi tiếng, các nhà báo, các nghị sĩ, những người mà hành lý của họ chỉ bao gồm một tá những cụm từ cách mạng mơ hồ, để giao phó sự lãnh đạo phong trào cho họ.
Đó là vì sao mà Jules Favre, Picard, Garnier-Pagès cùng các đồng sự được lên nắm quyền ở Paris ngày 4 tháng 9 và cũng cùng bởi thế mà Paul-Boncour, A.Varenne, Pierre Renaudel và nhiều người khác nữa trong suốt một thời gian đã làm chủ đảng của giai cấp vô sản. Renaudel và Boncour và ngay cả Longuet và Pressemane gần gũi hơn nhiều, nhờ vào đức hạnh của sự cảm thông, tầm vóc trí tuệ và xử sự của họ, với Jules Favre và Jules Pherry hơn là với giai cấp vô sản cách mạng. Diễn ngôn xã hội chủ nghĩa của họ không là gì ngoài một cái mặt nạ lịch sử để cho phép họ áp đặt bản thân lên quần chúng. Và đó chỉ là vì Favre, Simon, Picard và những người khác đã sử dụng và lạm dụng một cụm từ tự do dân chủ thứ mà con trai và cháu trai của họ có nghĩa vụ buộc phải viện đến một cụm từ xã hội chủ nghĩa. Nhưng các con và cháu trai vẫn xứng đáng với cha ông họ và vẫn tiếp tục công việc của họ. Và khi cần quyết định không phải là câu hỏi về thành phần của một nhóm bộ trưởng mà là câu hỏi quan trọng hơn nhiều để biết tầng lớp nào ở Pháp phải nắm quyền, hậu duệ của Renaudel, Varenne, Longuet và similars sẽ ở trong trại của Millerand – cộng tác viên của Galliffet, gã đồ tề của Công xã … Khi những ông nghị những kẻ cứ bô bô về cách mạng thấy mình phải đối mặt, trong cuộc sống thực, với cuộc cách mạng, họ không bao giờ nhận ra điều đó.
Đảng của công nhân – thứ thực sự – không phải là một cỗ máy cho những cuộc vận động nghị trường, mà là nơi kinh nghiệm tổ chức của giai cấp vô sản được tích lũy. Chỉ nhờ có đảng, dựa trên toàn bộ lịch sử của mình trong quá khứ, tiên đoán về mặt lý thuyết những đường lối phát triển, toàn bộ quy mô của nó, và từ đó rút ra công thức cần thiết cho hành động, chỉ nhờ đó mà giai cấp vô sản tự giải thoát mình khỏi những khó khăn đã luôn kìm hãm nó trong lịch sử: Sự do dự, thiếu quyết đoán và nhầm lẫn của nó.
Giai cấp vô sản Paris không có một đảng như vậy. Những nhà xã hội chủ nghĩa tư sản mà Công xã tràn ngập, ngước mắt lên trời, chờ đợi một phép lạ hoặc một lời tiên tri nào đó, do dự, và khi thời gian trôi đi quần chúng buộc phải dò dẫm, như rắn mất đầu vì sự thiếu quyết đoán của một số người và sự ảo tưởng từ những kẻ khác. Kết quả là cuộc cách mạng nổ ra ngay giữa họ, quá muộn và Paris bị bao vây. Sáu tháng đã trôi qua trước khi giai cấp vô sản có thể tái lập trong ký ức của mình những bài học về các cuộc cách mạng trong quá khứ, về những trận chiến của thời đại, về sự phản bội của nền dân chủ – và chỉ đến lúc đó nó mới nắm lấy quyền lực.
Sáu tháng này đã chứng tỏ là một mất mát không thể nào bù đắp. Nếu như có đảng tập trung vào hành động cách mạng để dẫn đầu giai cấp vô sản Pháp vào tháng 9 năm 1870, toàn bộ lịch sử nước Pháp và cùng với nó, toàn bộ lịch sử của nhân loại sẽ đi theo một hướng khác.
Nếu quyền lực đã rơi vào tay giai cấp vô sản Paris vào ngày 18 tháng 3, thì đó không phải là vì nó đã được chiếm giữ một cách chủ động, mà vì kẻ thù của nó đã rời bỏ Paris.
Sau cùng khi thất bại cứ đến liên tục, chính phủ bị những người công nhân coi thường và ghê tởm, bị giai cấp tiểu tư sản hoài nghi còn giai cấp đại tư sản lớn thì lo sợ rằng nó không còn khả năng bảo vệ họ nữa. Những người lính đã thù địch với các sĩ quan và chính phủ phải chạy trốn khỏi Paris để tập trung lực lượng ở nơi khác. Và đó là lúc giai cấp vô sản trở thành người làm chủ tình hình. Nhưng nó chỉ nhận ra thực tế này khi nó đã đến. Cuộc cách mạng như trên trời rơi xuống.
Thành công đầu tiên này là một nguồn gốc mới cho sự thụ động. Kẻ thù đã chạy trốn đến Versailles. Đó không phải là một chiến thắng sao? Vào lúc đó, cả đám chính phủ có thể đã bị nghiền nát mà gần như không đổ máu. Ở Paris, tất cả các bộ trưởng, với Thiers cầm đầu, có thể đã bị bắt làm tù binh. Không ai có thể che chở cho họ nhưng nó đã không được thực hiện. Không có tổ chức của một đảng tập trung, có cái nhìn bao quát về mọi thứ và các cơ quan đặc biệt để nhận ra vai trò quyết định của mình.
Những mảnh rời rạc của bộ binh không muốn quay trở lại Versailles. Sợi chỉ trói các sĩ quan và binh lính quá mỏng manh. Và nếu như có một đảng tập trung ở Paris, nó sẽ hòa vào các đội quân đang rút lui, với vài trăm hoặc thậm chí chỉ vài chục công nhân tận tụy, đưa cho họ những chỉ dẫn sau: tăng cường sự bất mãn những người lính chống lại các sĩ quan, tranh thủ khoảnh khắc tâm lý thuận lợi đầu tiên để giải thoát những người lính khỏi sĩ quan của họ và đưa họ trở lại Paris để đoàn kết với người dân. Điều này có thể dễ dàng được nhận ra, theo lời thừa nhận của chính những người ủng hộ Thiers. Thậm chí không ai nghĩ về nó, hoặc không dám nghĩ về nó. Giữa những sự kiện lớn, hơn nữa, những quyết định như vậy chỉ có thể được thông qua bởi một đảng cách mạng mong muốn một cuộc cách mạng, chuẩn bị cho nó, không như rắn mất đầu, bởi một đảng quen với việc có một cái nhìn toàn diện và không sợ phải hành động. Chỉ là một đảng hành động đã là điều mà giai cấp vô sản Pháp không có.
Ban chấp hành trung ương của Vệ quốc quân có thẩm quyền của một Hội đồng đại biểu của các công nhân và tiểu tư sản vũ trang. Một Hội đồng như vậy, được bầu trực tiếp bởi quần chúng đã đi theo con đường cách mạng, đại diện cho một bộ máy hành động xuất sắc. Nhưng đồng thời, và chỉ vì mối liên hệ ngay lập tức và cơ bản của nó với quần chúng ở bang mà nhà cách mạng đã tìm thấy chúng, nó phản ánh không chỉ tất cả các mặt mạnh mà cả các mặt yếu của quần chúng, và trước tiên, nó phản ánh những mặt yếu vẫn hơn là mạnh: nó thể hiện tinh thần thiếu quyết đoán, do dự, xu hướng chững lại sau những thành công đầu tiên.
Ủy ban Trung ương Vệ quốc quân cần được lãnh đạo. Không thể thiếu việc có một tổ chức hiện thân với kinh nghiệm chính trị của giai cấp vô sản và luôn luôn có mặt – không chỉ trong Ban chấp hành trung ương, mà trong các quân đoàn, tiểu đoàn, trong các lĩnh vực sâu nhất của giai cấp vô sản Pháp. Bằng phương tiện của Hội đồng Đại biểu – trong trường hợp cụ thể, họ là các cơ quan của Lực lượng Vệ quốc quân – đảng có thể đã liên lạc với quần chúng, biết được trạng thái tâm trí của họ; Trung tâm hàng đầu của nó mỗi ngày có thể đưa ra một khẩu hiệu, thông qua phương tiện của các chiến binh của đảng, sẽ thâm nhập vào quần chúng, thống nhất suy nghĩ và ý chí của họ.
Thật khó khăn để chính phủ rút chạy tới Versailles nếu như Vệ Quốc quân kịp nhận ra trách nhiệm của mình, tại thời điểm mà trách nhiệm này là rất lớn. Ủy ban Trung ương đã ảo tưởng với cuộc bầu cử “theo luật định” thành lập Công xã. Nó đã tham gia vào các cuộc đàm phán với các thị trưởng của Paris để tự bảo vệ mình, từ Quyền, với “tính hợp pháp”.
Có một cuộc tấn công mạnh mẽ được chuẩn bị để chống lại Versailles, cùng một lúc với các cuộc đàm phán với các thị trưởng sẽ là một mưu mẹo hoàn toàn hợp lý từ quan điểm quân sự và phù hợp với mục tiêu. Nhưng trong thực tế, các cuộc đàm phán này đã được tiến hành chỉ để ngăn chặn cuộc đấu tranh bằng một phép lạ hay cách khác. Những người tiểu tư sản cấp tiến và những người theo chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa, tôn trọng “tính hợp pháp” và những người đàn ông là một phần của nhà nước pháp lý – các đại biểu, thị trưởng, v.v. – hy vọng nơi sâu thẳm tâm hồn của họ rằng Thiers sẽ tôn trọng Paris ngay giây phút mà nó bao phủ chính nó với “tính hợp pháp” của Công Xã.
Sự thụ động và thiếu quyết đoán đã được hỗ trợ trong trường hợp này bởi nguyên tắc thiêng liêng của liên đoàn và sự tự chủ. Paris, bạn thấy đấy, chỉ là một Công xã trong số nhiều công xã khác. Paris không muốn áp đặt bất cứ điều gì lên bất cứ ai; nó không đấu tranh cho chế độ độc tài, trừ khi nó là ‘ví dụ cho chế độ độc tài’.
Tóm lại, đó không là gì ngoài nỗ lực thay thế cuộc cách mạng vô sản đang phát triển, bằng một cuộc cải cách tiểu tư sản: Công xã tự trị. Nhiệm vụ cách mạng thực sự bao gồm đảm bảo cho giai cấp vô sản nắm quyền lực trên cả nước. Paris phải phục vụ như là căn cứ của nó, điểm hỗ trợ, thành trì của nó. Và để đạt được mục tiêu này, cần phải đánh bại Versailles mà không mất thời gian và gửi những người kích động, người tổ chức và lực lượng vũ trang đến khắp nước Pháp. Nó là cần thiết để liên lạc với các cảm tình viên, để tăng cường những người do dự và phá vỡ sự chống đối của kẻ thù. Thay vì chính sách tấn công và gây hấn này, là điều duy nhất có thể cứu vãn tình hình, các nhà lãnh đạo của Paris đã cố gắng tự ẩn mình trong quyền tự trị chung chung của họ: họ sẽ không tấn công người khác nếu những người khác không tấn công họ; mỗi thị trấn có quyền tự trị thiêng liêng của mình. Trò chuyện lý tưởng này – cùng giới tính với chủ nghĩa vô chính phủ trần tục – bao trùm trong thực tế một sự hèn nhát khi đối mặt với hành động cách mạng đáng lẽ phải được tiến hành đến tận cùng, nếu không thì không nên bắt đầu.
Sự thù địch đối với tổ chức tư bản – một di sản của chủ nghĩa địa phương tiểu tư sản và tự trị – không nghi ngờ gì là mặt yếu của một bộ phận nhất định của giai cấp vô sản Pháp. Tự chủ cho các huyện, cho các phường, cho các quận, cho các thị trấn, là sự bảo đảm tối cao của hoạt động thực sự và độc lập cá nhân cho một số nhà cách mạng nhất định. Nhưng đó là một sai lầm lớn mà vô sản Pháp phải trả giá đắt.
Dưới hình thức của cuộc đấu tranh chống lại “chủ nghĩa tập trung chuyên chế”, và chống lại kỷ luật “ngột ngạt”, một cuộc đấu tranh diễn ra để tự bảo vệ các nhóm và phân nhóm của tầng lớp lao động, vì lợi ích nhỏ nhen của họ, với các lãnh đạo phường nhỏ của họ và nhà tiên tri địa phương của họ. Toàn bộ giai cấp công nhân, trong khi bảo tồn tính nguyên bản văn hóa và các sắc thái chính trị của mình, có thể hành động một cách có phương pháp và vững chắc, mà không bị kéo theo các sự kiện, và chỉ đạo mỗi khi đòn chí mạng của nó chống lại những kẻ thù yếu của nó, với điều kiện là đứng đầu, phía trên các phường, các quận, các nhóm, có một bộ máy được tập trung và ràng buộc với nhau bằng một kỷ luật sắt. Xu hướng theo chủ nghĩa đặc thù, bất kể hình thức nào nó có thể giả định, là một di sản của quá khứ đã chết.
Đảng không tạo ra cuộc cách mạng theo ý thích, nó không thể chọn thời điểm để giành lấy quyền lực theo ý muốn bản thân, nhưng nó can thiệp một cách tích cực vào các sự kiện, thâm nhập vào mọi khoảnh khắc của trạng thái tâm trí của quần chúng cách mạng và đánh giá đúng sức kháng cự của kẻ thù, và nhờ đó xác định được thời điểm thuận lợi nhất cho hành động mang tính quyết định. Đây là khía cạnh khó khăn nhất trong nhiệm vụ của nó. Không có quyết định nào của Đảng là đúng cho mọi trường hợp. Điều cần thiết là một lý thuyết đúng đắn, một mối liên hệ mật thiết với quần chúng, sự hiểu biết về tình hình, một nhận thức cách mạng, một sự kiên định tuyệt vời. Càng sâu sắc hơn khi một đảng cách mạng thâm nhập vào mọi mặt của cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản, càng thống nhất hơn khi nó thống nhất giữa mục tiêu và kỷ luật, và khi đó nó sẽ càng nhanh chóng hơn và tốt hơn trong việc giải quyết nhiệm vụ của mình.
Khó khăn bao gồm việc tổ chức một đảng tập trung, được hàn gắn bên trong bởi một kỷ luật sắt, liên kết mật thiết với sự vận động của quần chúng, với những bước đi và dòng chảy của nó. Cuộc chinh phục quyền lực không thể hoàn thành mà thiếu đi sự cần thiết của áp lực cách mạng mạnh mẽ từ đông đảo quần chúng. Nhưng trong hành động này, sự chuẩn bị là điều hoàn toàn không thể bỏ qua. Đảng càng hiểu rõ hơn về tình thế và thời khắc, các căn cứ kháng chiến sẽ được chuẩn bị tốt hơn, lực lượng và vai trò sẽ được phân phối tốt hơn, thắng lợi càng chắc chắn và xương máu sẽ bớt đổ. Mối tương quan của một hành động được chuẩn bị kỹ lưỡng và một phong trào quần chúng là nhiệm vụ chiến lược chính trị của việc giành quyền lực.
Việc so sánh giữa ngày 18 tháng 3 năm 1871 với ngày 7 tháng 11 năm 1917 là bổ sung rất hữu ích cho quan điểm này. Ở Paris, thiếu vắng hoàn toàn một sáng kiến hành động trong một bộ phận của giới cách mạng hàng đầu. Giai cấp vô sản, nhờ trang bị của chính phủ tư sản, là chủ nhân thực tế của thành phố, có tất cả các phương tiện vật chất của sức mạnh – đại bác và súng trường – theo ý của mình, nhưng nó không nhận thức được điều đó. Giai cấp tư sản đã thực hiện một nỗ lực để chiếm lại vũ khí từ trong tay người khổng lồ: nó muốn đánh cắp những khẩu pháo của giai cấp vô sản. Nỗ lực thất bại. Chính phủ bỏ chạy trong hoảng loạn từ Paris đến Versailles. Thất bại này là rõ ràng. Nhưng chỉ đến ngày hôm sau, giai cấp vô sản mới nhận ra rằng nó đã là chủ nhân của Paris. Các “nhà lãnh đạo” đứng trước các sự kiện, họ ghi lại chúng khi những điều sau đã hoàn thành và họ làm mọi thứ trong khả năng của mình để làm giảm bớt lợi thế của cách mạng.
Ở Petrograd, các sự kiện được phát triển theo hướng khác. Đảng di chuyển vững chắc và kiên quyết để giành lấy quyền lực, người của nó ở khắp mọi nơi, củng cố từng vị trí, nới rộng sự rạn nứt giữa một bên là công nhân và quân đồn trú và bên kia là chính phủ.
Cuộc diễn tập vũ trang những ngày tháng Bảy là một cuộc thăm dò rộng lớn được tiến hành bởi đảng để đánh giá mức độ va chạm giữa quần chúng với sức kháng cự của kẻ thù. Sự thăm dò chuyển thành một cuộc đấu tranh cho các tiền đồn. Chúng ta bị bật ngược trở lại, nhưng đồng thời cũng thiết lập được một kết nối giữa đảng với chiều sâu của quần chúng. Đến các tháng tám, rồi tháng chín và tháng mười đã chứng kiến một dòng chảy cách mạng cuồn cuộn. Đảng gặt hái thành quả và gia tăng đáng kể các điểm hỗ trợ trong tầng lớp lao động và quân đồn trú. Sau đó, sự hài hòa giữa những chuẩn bị hành động và hành động quần chúng diễn ra gần như tự động. Đại hội lần thứ hai của các Xô Viết được ấn định vào tháng 11. Tất cả sự kích động trước đó của chúng ta là dẫn đến sự chiếm đoạt quyền lực ở Đại hội. Như vậy chúng ta đã lật ngược được tình thế trước ngày 7 tháng 11. Thực tế này đã được kẻ thù biết đến và hiểu rõ. Kerensky và các ủy viên hội đồng của ông không thể không nỗ lực củng cố bản thân, dù ở một mức độ nhỏ, ở Petrograd cho thời điểm quyết định. Ngoài ra, họ đứng trước nhu cầu vận chuyển ra khỏi thủ đô những bộ phận cách mạng nhất của quân đồn trú. Về phần chúng ta, chúng ta đã được hưởng lợi từ nỗ lực này của Kerensky khi biến nó thành nguồn gốc của một cuộc xung đột mới có tầm quan trọng quyết định. Chúng tôi công khai cáo buộc chính quyền Kerensky – cáo buộc của chúng tôi sau đó đã tìm thấy một văn bản xác nhận trong một tài liệu chính thức – về việc họ đã lên kế hoạch loại bỏ một phần ba quân đồn trú của Petrograd, không phải vì các cân nhắc quân sự mà cho mục đích phối hợp với phản cách mạng. Sự xung đột này gắn bó chúng ta chặt chẽ hơn với quân đồn trú và đặt nó trước nhiệm vụ được xác định rõ ràng, để hỗ trợ Đại hội Soviet ấn định vào ngày 7 tháng 11. Và kể từ khi chính phủ khăng khăng – ngay cả khi theo cách thức yếu đuối – rằng quân đồn trú phải bị gửi ra mặt trận, chúng tôi đã tạo ra trong Soviet Petrograd, có sẵn trong tay, một Ủy ban đấu tranh Cách mạng, lấy cớ xác minh lý do quân sự cho kế hoạch của chính phủ.
Do đó, chúng ta đã có một cơ quan quân sự thuần túy, đứng ở vị trí dẫn đầu quân đồn trú của Petrograd, thực tế là một cơ quan pháp lý của cuộc nổi dậy vũ trang. Đồng thời chúng ta chỉ định các chính ủy (cộng sản) trong tất cả các đơn vị quân đội, trong các kho quân sự, vv… Tổ chức quân sự bí mật đã hoàn thành các nhiệm vụ kỹ thuật cụ thể và cung cấp cho Ủy ban Đấu tranh Cách mạng các chiến binh hoàn toàn đáng tin cậy cho các nhiệm vụ quân sự quan trọng. Công việc thiết yếu liên quan đến việc chuẩn bị, thực hiện và khởi nghĩa vũ trang diễn ra một cách công khai, và một cách có phương pháp và tự nhiên đến mức giai cấp tư sản, do Kerensky lãnh đạo, không hiểu rõ những gì đang diễn ra dưới con mắt của họ. (Ở Paris, giai cấp vô sản chỉ hiểu vào ngày hôm sau rằng nó đã thực sự chiến thắng – hơn nữa, đó là một chiến thắng mà nó không cố tình tìm kiếm – rằng nó đã làm chủ tình huống. Ở Petrograd, điều đó là ngược lại. Đảng của chúng ta, dựa vào các công nhân và quân đồn trú, đã nắm được quyền lực, giai cấp tư sản đã trải qua một đêm khá yên tĩnh và chỉ biết vào sáng hôm sau rằng lãnh đạo đất nước nằm trong tay người đào mộ cho nó.)
Về chiến lược, có nhiều ý kiến khác nhau trong đảng của chúng ta.
Một bộ phận của Ủy ban Trung ương tuyên bố, như đã biết, chống lại việc nắm quyền, tin rằng thời điểm chưa đến, rằng Petrograd đã bị tách rời khỏi phần còn lại của đất nước, giai cấp vô sản tách rời khỏi nông dân, v.v…
Các đồng chí khác tin rằng chúng ta không đủ ảnh hưởng quan trọng đối với các thành phần của quân đội. Một trong những thành viên của Uỷ ban Trung ương đã đề xuất trong tháng 10 sẽ vây quanh Nhà hát Alexandrine, nơi diễn ra Hội nghị Dân chủ, và công bố nền chuyên chính của Ủy ban Trung ương đảng. Ông ấy nói: “Trong sự tập trung kích động của chúng ta cũng như công tác chuẩn bị về quân sự của chúng ta cho thời điểm diễn ra Đại hội lần thứ hai, chúng ta đang bộc lộ kế hoạch của mình cho kẻ thù, chúng ta sẽ cho anh ta khả năng chuẩn bị và thậm chí là giáng đòn cho chúng ta một đòn phòng ngừa.” Nhưng không còn nghi ngờ gì nữa, nỗ lực với một âm mưu quân sự và vây quanh Nhà hát Alexandrine sẽ là một thực tế quá xa lạ đối với sự phát triển của các sự kiện, rằng nó sẽ là một sự kiện gây khó chịu cho quần chúng. Ngay cả ở Xô Viết Petrograd, nơi phe của chúng ta thống trị, một việc làm táo bạo như vậy, dự đoán sự phát triển hợp lý của cuộc đấu tranh, sẽ gây ra sự rối loạn lớn vào lúc đó, trên tất cả các đơn vị đồn trú, nơi có các trung đoàn do dự và không tin cậy, chủ yếu là trung đoàn kỵ binh. Kerensky sẽ dễ dàng hơn nhiều trong việc nghiền nát một sự bất ngờ của quần chúng hơn là tấn công quân đồn trú ngày càng củng cố vị trí của mình: bảo vệ quyền bất khả xâm phạm của mình dưới danh nghĩa của Đại hội Xô Viết trong tương lai. Do đó, đa số Ủy ban Trung ương đã bác bỏ kế hoạch bao vây Hội nghị Dân chủ và điều đó là đúng. Sự kết hợp được đánh giá rất tốt: cuộc nổi dậy vũ trang, gần như không đổ máu, thắng lợi hoàn toàn chỉ trong một ngày, được ấn định trước và công khai, cho việc triệu tập Đại hội Xô viết lần thứ hai.
Chiến lược này không thể, tuy nhiên, trở thành một quy tắc chung, nó đòi hỏi các điều kiện cụ thể. Không ai tin vào cuộc chiến với người Đức nữa, và những người lính ít cách mạng hơn không muốn rời khỏi Petrograd để ra mặt trận. Và ngay cả khi toàn bộ quân đồn trú đứng về phía công nhân vì lý do duy nhất này, nó trở nên mạnh mẽ hơn theo quan điểm của nó đến mức mà âm mưu của Kerensky được tiết lộ. Nhưng tâm trạng này của quân đồn trú Petrograd vẫn còn nguyên nhân sâu xa hơn trong tình hình của giai cấp nông dân và trong sự phát triển của cuộc chiến tranh đế quốc. Nếu có một sự chia rẽ trong quân đồn trú và nếu Kerensky có được khả năng hỗ trợ từ một vài trung đoàn, kế hoạch của chúng ta sẽ thất bại. Các yếu tố hoàn toàn thuần túy quân sự (chiến thuật và hành động chớp nhoáng) sẽ chiếm ưu thế. Nó sẽ là cần thiết, tất nhiên, là chọn một thời điểm khác cho cuộc nổi dậy.
Công xã cũng có khả năng chiến thắng hoàn toàn ngay cả với các trung đoàn nông dân, những người đã mất hết niềm tin và tất cả sự tôn trọng đối với sức mạnh và mệnh lệnh. Tuy nhiên, nó không có gì cho đến cuối ngày. Lỗi ở đây không nằm ở mối quan hệ giữa nông dân và giai cấp công nhân, mà là ở chiến lược cách mạng.
Điều gì sẽ xảy ra trong vấn đề này ở các nước châu Âu trong thời đại hiện nay? Không dễ để báo trước bất cứ điều gì về ẩn số này. Tuy nhiên, với các sự kiện phát triển chậm và các chính phủ tư sản nỗ lực hết sức để tận dụng kinh nghiệm trong quá khứ, có thể thấy rằng giai cấp vô sản, để thu hút sự đồng cảm của những người lính, nó sẽ phải vượt qua một sự kháng cự được tổ chức tốt và mạnh mẽ ở thời điểm quyết định. Một cuộc tấn công khéo léo và đúng lúc vào phần của cuộc cách mạng sau đó sẽ là cần thiết. Nhiệm vụ của đảng là chuẩn bị cho nó. Đó chỉ là lý do tại sao nó phải duy trì và phát triển tính chất của một tổ chức tập trung, hướng dẫn công khai phong trào cách mạng của quần chúng và đồng thời là một bộ máy bí mật cho cuộc nổi dậy vũ trang.
Vấn đề bầu chọn là một trong những lý do gây nên cuộc xung đột giữa Vệ quốc quân với Thiers. Paris từ chối chấp nhận chỉ huy do Thiers chỉ định. Varlin sau đó đã đưa ra yêu sách rằng chỉ huy của lực lượng Vệ quốc quân, từ trên xuống dưới, phải được bầu chọn bởi chính Vệ quốc quân. Đó là điểm tựa cho Ủy ban Trung ương Vệ quốc quân.
Vấn đề này phải nhìn từ hai mặt: từ chính trị và quân sự, vừa liên kết với nhau nhưng vừa cần có sự phân biệt. Nhiệm vụ chính trị bao gồm việc thanh trừng bộ chỉ huy phản cách mạng trong Vệ quốc quân. Bầu chọn là phương tiện duy nhất cho nó bởi phần lớn lực lượng của Vệ quốc quân là bao gồm công nhân và tiểu tư sản cách mạng. Và ngoài ra, khẩu hiệu “bầu chọn chỉ huy”, cũng đã được mở rộng cho bộ binh, qua đó Thiers sẽ bị tước đi một trong những vũ khí quan trọng của mình, các sĩ quan phản cách mạng. Để thực hiện kế hoạch này, một tổ chức đảng, có người của nó trong tất cả các đơn vị quân đội, phải được đặt ra. Nói cho dễ hiểu, việc bầu chọn này, nhiệm vụ trước mắt của nó không phải là cung cấp các chỉ huy giỏi cho các tiểu đoàn mà là để giải phóng chúng khỏi những chỉ huy trung thành với giai cấp tư sản. Bầu chọn phục vụ như một cái nêm để chia quân đội thành hai, dọc theo các giai cấp. Một vấn đề tương tự trong thời kỳ Kerensky, nhất là vào đêm trước cách mạng tháng Mười.
Nhưng việc giải phóng quân đội khỏi bộ máy chỉ huy cũ chắc chắn bao hàm việc làm yếu đi sự gắn kết của tổ chức và làm giảm sức mạnh chiến đấu. Theo lẽ thường, bộ chỉ huy do bầu chọn khá yếu từ quan điểm kỹ thuật-quân sự, bao gồm cả việc duy trì trật tự và kỷ luật. Do đó, tại thời điểm mà quân đội giải phóng chính mình khỏi bộ chỉ huy phản cách mạng cũ đã đè nặng lên nó, vấn đề ngay lập tức đặt ra là trao cho nó một chỉ huy cách mạng có năng lực để giúp nó hoàn thành các nhiệm vụ của nó. Và vấn đề này có thể không được giải quyết bằng các cuộc bầu cử đơn giản. Trước khi đông đảo binh sĩ có được kinh nghiệm lựa chọn và có thể lựa chọn ra những người chỉ huy tốt, cuộc cách mạng sẽ bị đánh bại bởi kẻ thù được dẫn dắt bởi những chỉ huy được rèn giũa từ kinh nghiệm tích lũy qua nhiều thế kỷ. Các phương pháp của nền dân chủ không bị biến dạng (bầu chọn đơn giản) phải được bổ sung và ở một mức độ nhất định được thay thế bằng các biện pháp lựa chọn từ trên xuống. Cuộc cách mạng phải tạo ra một cơ quan bao gồm các nhà tổ chức có kinh nghiệm, đáng tin cậy, trong đó người ta có thể đặt niềm tin tuyệt đối, trao cho nó toàn quyền lựa chọn, chỉ định và giáo dục chỉ huy. Nếu chủ nghĩa đặc biệt và tự trị dân chủ là cực kỳ nguy hiểm đối với cách mạng vô sản nói chung, thì chúng nguy hiểm gấp mười lần đối với quân đội. Chúng tôi thấy rằng trong ví dụ bi thảm của Công xã. Nếu chủ nghĩa phân lập và tự trị dân chủ là cực kỳ nguy hiểm đối với cách mạng vô sản nói chung, thì chúng nguy hiểm gấp mười lần đối với quân đội. Chúng ta nhận ra điều đó trong ví dụ bi thảm của Công xã.
Ủy ban Trung ương Vệ quốc quân đã bị bào mòn thẩm quyền do bầu chọn dân chủ. Ở thời điểm mà Ủy ban Trung ương cần phát triển tối đa sáng kiến nội bộ trong cuộc tấn công, thiếu đi sự lãnh đạo của một đảng vô sản, giống như rắn mất đầu, nó vội vàng trao quyền lực của mình cho các đại biểu của Công xã, những người đòi hỏi phải có một cơ sở dân chủ rộng lớn hơn. Và đó là một sai lầm lớn trong thời kỳ đó để chơi trò bầu cử. Nhưng một khi các cuộc bầu cử đã được tổ chức và Công xã tập hợp lại, điều tối quan trọng là tập trung mọi thứ vào tay Công xã để nó thành thể thống nhất và để cho nó tạo ra một cơ quan sở hữu sức mạnh thực sự để có thể tổ chức lại Lực lượng Vệ quốc quân. Đây không phải là điều đã xảy ra. Bên cạnh Công xã đã được bầu Ủy ban Trung ương vẫn còn; những nhân vật được bầu chọn sau này đã được trao cho một quyền lực chính trị mà nhờ đó nó có thể cạnh tranh với Công xã. Nhưng đồng thời, nó đã tước đi sức mạnh và sự kiên quyết cần thiết trong các vấn đề quân sự thuần túy, mà sau khi Công xã được tổ chức, đó lại là điều cần thiết cho sự tồn tại của nó. Bầu chọn, một phương pháp dân chủ, chỉ là một trong những công cụ trong tay giai cấp vô sản và đảng của nó. Sự bầu chọn có thể sai lầm khi được sùng bái, khi được coi là một phương thuốc chữa bách bệnh. Các phương pháp bầu chọn phải được kết hợp với các phương pháp bổ nhiệm. Sức mạnh của Công xã đến từ Lực lượng Vệ quốc quân được bầu chọn. Nhưng một khi được tạo ra, Công xã nên tổ chức lại một cách mạnh mẽ lực lượng Vệ quốc quân, từ trên xuống dưới, trao cho nó những người lãnh đạo đáng tin cậy và thiết lập một kỷ luật nghiêm khắc. Công xã đã không làm điều này, bị tước bỏ một trung tâm chỉ đạo cách mạng mạnh mẽ cuối cùng nó cũng bị nghiền nát.
Do vậy dẫu chúng ta có lật qua lật lại toàn bộ lịch sử của Công xã, từng trang từng trang một, chúng ta sẽ chỉ thấy trong đó một bài học duy nhất: Cần có sự lãnh đạo mạnh mẽ của đảng. Giai cấp vô sản Pháp đã hy sinh cho cách mạng hơn bất kỳ bộ phận vô sản nào khác. Nhưng cũng nhiều hơn bất kỳ ai khác nó đã bị lường gạt. Nhiều lần giai cấp tư sản đã làm nó lóa mắt bởi tất cả những sắc màu của chủ nghĩa cộng hòa, chủ nghĩa cấp tiến và xã hội chủ nghĩa, để luôn luôn trói chặt nó trong những gông xiềng của chủ nghĩa tư bản. Qua tay lũ tay sai, luật sư và nhà báo của mình, giai cấp tư sản đã tung ra hàng loạt những công thức dân chủ, nghị viện, tự trị, thứ không có gì khác ngoài những rào cản níu chân giai cấp vô sản, ngăn trở phong trào tiến lên.
Khí chất của giai cấp vô sản Pháp là một dòng dung nham cách mạng. Nhưng dòng dung nham này giờ đây bị bao trùm bởi đống tro tàn của sự hoài nghi từ vô số sự lừa dối và ảo tưởng. Với nữa, những người vô sản cách mạng Pháp phải nghiêm khắc hơn đối với đảng của họ, phải nghiêm khắc hơn nữa để vạch mặt bất kỳ lời nói nào không đi đôi với hành động. Các công nhân Pháp có nhu cầu về một tổ chức, mạnh như thép, với các nhà lãnh đạo được giám sát bởi quần chúng ở mọi giai đoạn phát triển của phong trào cách mạng.
Lịch sử sẽ dành cho chúng ta bao nhiêu thời gian để mình chuẩn bị? Chúng ta không biết. Trong năm mươi năm, giai cấp tư sản Pháp đã giữ chắc quyền lực trong tay sau khi đã bầu nên Cộng hòa thứ ba trên đống xương của những chiến sĩ Công xã. Những chiến binh của năm 71 không thiếu chủ nghĩa anh hùng. Điều họ thiếu là sự rõ ràng trong phương pháp và một tổ chức tập trung ở hàng đầu. Đó là lý do tại sao họ bị diệt vong. Nửa thế kỷ trôi qua trước khi giai cấp vô sản Pháp có thể đặt ra vấn đề về sự báo thù cho cái chết của những chiến sĩ Công xã. Nhưng lần này, hành động sẽ vững chắc hơn, tập trung hơn. Những người thừa kế của Thiers sẽ phải trả giá trọn vẹn cho khoản nợ lịch sử này.
LEON TROTSKY (1879 – 1940), là một nhà cách mạng, nhà lý luận Marxist người Nga. Người, trên cương vị là Chủ tịch Soviet Petrograd, đã cùng với Lenin lãnh đạo thành công cách mạng tháng Mười Nga năm 1917. Ông cũng là người đã đóng vai trò hàng đầu trong việc tổ chức Hồng quân từ những mảnh rời rạc và vô kỷ luật thành một đội quân có kỷ luật mạnh mẽ, trần đầy tinh thần cách mạng, dẫn dắt nó đi tới chiến thắng trong cuộc nội chiến.
Sau khi Lenin mất, ông dần bị gạt ra bên lề của Đảng Bolshevik. Năm 1929, sau những thất bại trong nỗ lực chống lại xu hướng thoái hóa quan liêu trong Đảng và Nhà nước Soviet ông bị trục xuất khỏi Liên Xô. Năm 1938 ông thành lập Quốc tế thứ tư với dự định là một sự thay thế mang tính cách mạng và quốc tế cho Quốc tế ba đã bị thoái hóa. Nhưng trong khi công việc còn dang dở, ông đã bị ám sát bởi mật vụ của Stalin vào tháng 8 năm 1940 ở Mexico.