Về các tổ chức quần chúng – gửi tới giai cấp công nhân Nga và đội tiên phong của nó

Toàn bộ lịch sử phong trào công nhân quốc tế trong thế kỷ XX đã cung cấp cho chúng ta rất nhiều tư liệu cho thấy làm thế nào mà giai cấp công nhân và các tổ chức của nó đã phát triển. Từ việc nghiên cứu phong trào công nhân trong nhiều thập kỷ có thể rút ra kết luận không thể chối cãi sau đây: rằng khi quần chúng lao động bước vào vũ đài đấu tranh để thay đổi xã hội, trước hết họ sẽ không tránh khỏi bị thu hút bởi các tổ chức quần chúng truyền thống. Đa số công nhân – và thậm chí phần nhiều các phần tiên tiến của giai cấp – không học từ sách vở mà học từ kinh nghiệm, và đặc biệt là kinh nghiệm về các sự kiện lớn. Do đó, mọi thế hệ công nhân đều phải học lại những bài học của quá khứ, kinh qua những kinh nghiệm đau đớn. Quá trình này chỉ có thể được rút ngắn đáng kể ở nơi nào có xu hướng chủ nghĩa Mác mạnh mẽ và được giáo dục từ trước. Đây là trường hợp của Đảng Bolshevik năm 1917. Tuy nhiên, sự thành công của Đảng Bolshevik không phải là một tiên nghiệm.


Bài học tháng 10

Mặc dù những người Bolshevik đã tự khẳng định mình là đảng chính của giai cấp công nhân Nga trước Chiến tranh thế giới thứ nhất (trong giai đoạn 1912-1914, họ đã là 4 phần 5 của giai cấp công nhân có tổ chức), tuy nhiên, vào tháng 2 năm 1917, lúc cuộc cách mạng bắt đầu, họ đã bị giảm xuống thành một thiểu số nhỏ. Các vấn đề phát sinh từ chiến tranh – đàn áp hàng loạt, tổng động viên, làn sóng yêu nước ban đầu, một cách ngấm ngầm đã giáng đòn mạnh vào những người Bolshevik hơn các đảng phái khác. Sau đó, khi bắt đầu cuộc cách mạng, đã có sự bùng nổ trên mặt đất của những quần chúng ít học về chính trị nhất. Quần chúng không biết những người Bolshevik, nhưng bị thu hút bởi những cái tên nổi tiếng, những nhà lãnh đạo quốc hội có vẻ như “cánh tả” và “xã hội chủ nghĩa”. Trong quá trình cách mạng, quần chúng dần dần học cách phân biệt giữa những nhà lãnh đạo và đảng phái thực sự ủng hộ quyền lợi của họ và những đảng phái bán đứng họ. Đây không phải là một quá trình đơn giản, mà là một loạt những lần mò tiệm cận không ngừng. Nếu không có cách tiếp cận đúng đắn với quần chúng và các tổ chức của họ thì đảng Bolshevik đã không bao giờ có thể nắm quyền vào tháng Mười.

Dựa trên chương trình, sách lược đúng đắn và nhất là các chiến thuật khôn ngoan và linh hoạt, những người Bolshevik, dưới sự lãnh đạo của Lenin và Trotsky, đã chuyển mình từ một tổ chức yếu về số lượng, gần 8.000 người vào tháng Hai, thành một đảng quần chúng có khả năng lãnh đạo hàng triệu công nhân và nông dân lên nắm quyền vào tháng Mười. Nhưng có rất nhiều vấn đề. Trong giai đoạn đầu, cho đến khi Lênin trở về vào tháng 4, những người lãnh đạo Đảng, theo đường lối của Stalin – Kamenev, đã do dự và áp dụng chính sách cơ hội ủng hộ giai cấp tư sản “tiến bộ” trong Chính phủ lâm thời – hay nói cách khác, chính sách của chủ nghĩa hợp tác giai cấp mà Lênin đã dành cả đời để đấu tranh chống lại. Chỉ sau một cuộc đấu tranh nội bộ gay gắt lên đến đỉnh điểm là Hội nghị tháng Tư, dưới áp lực kiên quyết của Lênin, Đảng mới quay trở lại chính sách cách mạng thực sự. Đây là điều kiện tiên quyết cho sự thành công của cách mạng tháng Mười.

Tuy nhiên, việc đội tiên phong của giai cấp vô sản áp dụng một sách lược đúng đắn tự nó là không đủ để tiến hành cách mạng. Trước khi chinh phục chính quyền, trước hết phải chinh phục quần chúng. Đó là ý nghĩa cốt yếu trong chính sách của Lênin trong chín tháng trước tháng Mười. Điều này không đạt được bằng cách đứng ngoài các tổ chức quần chúng và lên lớp thuyết giảng từ bên lề cho giai cấp công nhân, mà bằng sự tham gia tích cực và năng nổ nhất vào các Xô viết, mà từ tháng Hai trở đi, là đại diện thực sự cho quần chúng. Tuy nhiên, vào đầu – và cho đến quãng tháng 8 và tháng 9, những người Bolshevik vẫn là một thiểu số nhỏ trong các Xô viết, lúc này vẫn còn bị thống trị bởi Menshevik và SR, là những người ủng hộ Chính phủ lâm thời. Lenin khuyên những người Bolshevik cố gắng giành được đa số Xô Viết với khẩu hiệu “kiên nhẫn giải thích!” (Đây cũng là một lời khuyên không tồi cho các đồng chí ngày nay.)

Khẩu hiệu “tất cả quyền lực về tay Xô Viết” được mọi người biết đến. Nhưng, như Hegel đã từng nhận xét, cái biết rồi chưa chắc đã hiểu được. Nội dung thực sự của khẩu hiệu “tất cả quyền lực về tay Xô Viết” là gì? Xuất phát điểm từ thực tế rằng những người Bolshevik – khuynh hướng cách mạng thực sự – chỉ là một thiểu số nhỏ, Lênin đã nói với đa số công nhân vẫn còn chịu ảnh hưởng của các nhà lãnh đạo Menshevik và SR như sau: Chúng tôi, những người Bolshevik nói rằng cách duy nhất để có được hòa bình, bánh mì và đất đai cũng như một giải pháp chính đáng cho các vấn đề của các dân tộc bị áp bức là đoạn tuyệt với giai cấp tư sản và chuyển giao quyền lực vào tay các Xô viết. Nhưng chúng tôi là thiểu số. Bạn chưa chấp nhận tất cả các ý tưởng của chúng tôi. Chúng dường như còn quá cao cấp, quá khó khăn đối với bạn. Tốt thôi. Hãy để các nhà lãnh đạo của bạn, SR và Menshevik, nắm quyền. Họ chiếm đa số đúng không. Họ có thể nắm quyền ngay vào ngày mai. Hãy để họ làm điều đó! Tại sao chúng ta cần các đảng tư sản chỉ đứng về lợi ích của địa chủ và tư bản và đang kéo dài chiến tranh? Hãy nói với các nhà lãnh đạo của bạn đoạn tuyệt với giai cấp tư sản và nắm quyền vào tay họ! Và, Lênin nói thêm, nếu họ làm như vậy, chúng tôi đảm bảo rằng cuộc đấu tranh giành quyền lực sẽ giảm xuống thành cuộc đấu tranh hòa bình để giành đa số trong các Xô viết.”

Nhờ các chiến thuật linh hoạt của Lenin, công việc kiên nhẫn của những người Bolshevik ở các Xô Viết đã thành công, họ đã thu phục được những người lao động trước đây đã ủng hộ các nhà lãnh đạo Menshevik và SR. Các phương pháp của Lênin không có điểm chung nào với chủ nghĩa vô trị hay chủ nghĩa cực tả cuồng loạn, những người tưởng tượng rằng cuộc đấu tranh chống lại các nhà lãnh đạo công nhân cơ hội có thể hoàn thành chỉ bằng những lời tố cáo và lăng mạ. Bằng cách đặt ra các yêu cầu đối với các nhà lãnh đạo Menshevik và SR, Lenin đã tạo ra sự chia rẽ giữa các cấp bậc và giới lãnh đạo, điều này dần dần được phơi bày trong thực tế trước toàn thể giai cấp công nhân. Một bước ngoặt quan trọng là cuộc nổi dậy của Kornilov vào mùa hè năm đó, khi những người Bolshevik ngay lập tức phát động một mặt trận thống nhất với các nhà lãnh đạo Xô Viết trong cuộc chiến chống lại kẻ thù chính là Kornilov. Điều này bất chấp thực tế là những người Menshevik và SR đã đóng một vai trò phản cách mạng công khai sau Ngày tháng Bảy, khi họ hợp tác với những kẻ phản động không chỉ để vu khống và đàn áp những người Bolshevik mà còn bao gồm yêu cầu bắt giữ Lenin. Mặc dù vậy, Lenin hiểu sự cần thiết phải đề xuất một mặt trận thống nhất với các nhà lãnh đạo cơ hội – tất nhiên không phải là một khối vững chắc, mà là sự thống nhất trong hành động chống lại Kornilov – như một phương tiện để lôi kéo công nhân khỏi những kẻ cơ hội và vạch trần chúng trên thực tế. Điều này, và chỉ điều này, đã giúp Đảng Bolshevik giành được đa số quyết định trong các Xô viết (và cả các công đoàn chính) trong giai đoạn ngay trước cuộc cách mạng Tháng Mười, và do đó đã phát động một cuộc nổi dậy thành công.

Chủ nghĩa Stalin và chủ nghĩa bôn-sê-vích

Lênin đã đặt ra bốn điều kiện cơ bản – không phải cho chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa cộng sản – mà cho ngày sau cách mạng, cho thời kỳ quá độ giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, cho một nhà nước của công nhân, mà như Engels đã giải thích từ lâu, không phải là một nhà nước trong theo nghĩa thông thường của từ này (nghĩa là một con quái vật quan liêu quái dị mà thiểu số dùng để áp bức đa số) mà là một cơ quan quyền lực của công nhân, rất đơn giản và cực kỳ dân chủ, và hơn nữa, được thiết kế để tự tiêu biến, sẽ bắt đầu tự hòa tan vào xã hội ngay khi sự phát triển của lực lượng sản xuất cho phép giảm ngày làm việc nói chung, đồng thời nâng cao mức sống và giáo dục cho quảng đại quần chúng.

Bốn điều kiện của Lênin là gì? 

1) Bầu cử tự do và dân chủ với quyền bãi nhiệm tất cả các quan chức. 

2) Không có quan chức nào nhận được lương cao hơn công nhân lành nghề. 

3) Không có quân đội thường trực mà chỉ có nhân dân được vũ trang. 

4) Dần dần, tất cả các công việc điều hành nhà nước phải được thực hiện lần lượt – khi ai cũng là quan chức, không ai có thể chỉ là quan chức. 

Dưới thời của Stalin, tất cả những điều kiện này đều bị bãi bỏ. Nhà nước trở thành một con quái vật quan liêu, được thiết kế để bảo vệ quyền lực và đặc quyền của hàng triệu quan chức – nhưng đặc biệt là giới thượng lưu hàng đầu – chống lại giai cấp công nhân, những người đã bị tước đoạt về mặt chính trị. Chỉ còn lại một đỉnh cao mà tháng 10 đã chinh phục – một cuộc chinh phục mà chắc chắn là rất quan trọng – nền kinh tế được quốc hữu hóa và kế hoạch hóa, điều đã đảm bảo cho những tiến bộ to lớn và chiến thắng chưa từng có cho Liên Xô, điều không phải nhờ vào Stalin và bộ máy quan liêu, mà là bất chấp họ.

Stalin đã vạch ra một lằn ranh bằng sông máu giữa bộ máy quan liêu đã chiếm đoạt và phản bội cuộc cách mạng Tháng Mười với những người còn kiên quyết chiến đấu để bảo vệ những ý tưởng thực sự của chủ nghĩa Bolshevik của Lenin. Tuy nhiên, ngay cả khi bị khai trừ khỏi Quốc tế Cộng sản, Trotsky và những người theo ông vẫn coi mình là những người Cộng sản và hướng về các Đảng Cộng sản, đấu tranh đòi thay đổi đường lối, vì nền dân chủ của công nhân và chủ nghĩa quốc tế vô sản. Tiếc rằng ở thời điểm đó, cánh cửa đã đóng chặt im lìm. Thành công của các kế hoạch 5 năm đầu tiên và công nghiệp hóa của Liên Xô – mà Trotsky lần đầu tiên ủng hộ chống lại sự phản đối của Stalin – có nghĩa là bộ máy quan liêu đã có thể củng cố vị trí của nó trong cả một thời kỳ.

Tuy nhiên, như Trotsky đã dự đoán, đẳng cấp quan liêu với đặc quyền lên nắm quyền là nhờ cách mạng đã bị cô lập trong những điều kiện lạc hậu khủng khiếp, họ sẽ phản bội tất cả các truyền thống của Chủ nghĩa Lênin và Tháng Mười, rồi cuối cùng lại phá hoại nền tảng của nền kinh tế kế hoạch được quốc hữu hóa – nền kinh tế duy nhất trong số các cuộc chinh phục của tháng 10 còn tồn tại. Không thoả mãn với thu nhập và đặc quyền ngày càng phình to của mình, họ khao khát biến mình thành chủ sở hữu tư liệu sản xuất, để có thể truyền của cải và đặc quyền của mình cho con cái thông qua thừa kế. Ẩn chứa trong lối sống và tâm lý của những sinh vật này là những thứ tương tự như tư sản ở phương Tây. Thẻ của Đảng Cộng sản họ còn mang trong túi, nhưng những gì là chủ nghĩa Cộng sản, chủ nghĩa xã hội hay giai cấp công nhân, tất cả đều đã là điều xa lạ với họ. Đến cuối cùng, họ đã chuyển sang chủ nghĩa tư bản một cách dễ dàng như một người đàn ông chuyển từ khoang hút thuốc sang khoang không hút thuốc trên một chuyến tàu.

Đây là sự phản bội lớn nhất trong lịch sử phong trào công nhân thế giới. Nếu mà đem so sánh với sự phản bội của các nhà lãnh đạo Đảng Dân chủ Xã hội vào năm 1914 thì cái sau cũng chỉ là trò trẻ con. Những người kiên trì mô tả chế độ cũ là “chủ nghĩa xã hội” không bao giờ có thể giải thích làm thế nào một điều quái dị như vậy có thể xảy ra. Sự thật là chế độ của Stalin, Khrushchev, Brezhnev và Gorbachev không liên quan gì đến chủ nghĩa xã hội như cách hiểu của Marx và Lenin. Đó là một bức tranh biếm họa quan liêu gớm ghiếc. Trotsky giải thích rằng một nền kinh tế kế hoạch được quốc hữu hóa cần dân chủ như cơ thể con người cần oxy – không phải bức tranh biếm họa của nền dân chủ nghị viện tư sản, mà là nền dân chủ của công nhân chân chính do Lenin và Trotsky thành lập năm 1917. Không có sự tham gia và kiểm soát dân chủ của giai cấp công nhân tại mọi cấp ngành, xã hội và nhà nước, thì điều không thể tránh khỏi là sự trỗi dậy của bộ máy quan liêu đặc quyền, và cùng với đó là tất cả các tệ nạn tham nhũng, lừa đảo và quản lý yếu kém, làm suy yếu và phá hoại nền kinh tế kế hoạch. Sự hỗn loạn và phá hoại càng gia tăng khi nền kinh tế Liên Xô phát triển và trở thành một cơ chế hiện đại, phức tạp và tinh vi. Đây là bí mật của sự suy giảm tốc độ tăng trưởng của Liên Xô từ khoảng năm 1965 trở đi. Dù có nhiều nhà khoa học hơn cả Mỹ, Đức và Nhật cộng lại, Liên Xô đã không thể đạt được kết quả tương tự như ở các nước đó. Khi tốc độ tăng trưởng chạm xuống số 0 trong những năm cuối cùng của Brezhnev thì chế độ đã bị kết án.

Tuy nhiên, bị kết án không phải là chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa cộng sản, mà là bức tranh biếm họa quan liêu, toàn trị mà chúng ta gọi là chủ nghĩa Stalin. Cách duy nhất để giải quyết các vấn đề của nền kinh tế Liên Xô là cho phép giai cấp công nhân (cùng với trí thức, nhà khoa học, kỹ sư, v.v.) điều hành công nghiệp, khoa học và nhà nước theo các nguyên tắc của nền dân chủ Xô viết do Lênin vạch ra trong Nhà nước và Cách mạng và được tóm tắt trong cương lĩnh của Đảng năm 1919.

Sự sụp đổ của Liên Xô và vai trò chết người của các nhà lãnh đạo cũ của cái gọi là Đảng Cộng sản đã tạo ra một tình huống hoàn toàn khác trong phong trào Cộng sản. Kiểm soát nguyên khối cũ không còn có thể được thực hiện ở cùng mức độ. Sự hoài nghi tràn ngập các cấp bậc bên dưới, đặc biệt là trong thanh niên. Có một tâm trạng ngày càng tăng của sự chỉ trích và nghi vấn, nhưng các nhà lãnh đạo không có câu trả lời. Được đào tạo trong trường học theo chủ nghĩa Stalin, họ trả lời các câu hỏi bằng các thủ đoạn và biện pháp tổ chức. Các Đảng Cộng sản không còn là một phần của nhà nước. Nhưng điều này không có nghĩa là họ đã quay trở lại quan điểm của chủ nghĩa Lênin mà ngược lại càng cách xa nó. Cả trong lĩnh vực chính trị lẫn tổ chức, họ đều không tuân theo truyền thống của Đảng Bolshevik. Các chính sách và hành vi công khai chống chủ nghĩa Lênin của các nhà lãnh đạo CPRF gây ra sự bất mãn ngày càng tăng của những người Cộng sản lương thiện ở khắp mọi nơi.

Những người kiên định với chủ nghĩa Bolshevik-Leninist đã bị vu khống, bức hại, bỏ tù và sát hại. Bằng cách này, Stalin nghĩ rằng ông ta đã phá vỡ được nút thắt của lịch sử và xóa bỏ hoàn toàn truyền thống đích thực của chủ nghĩa Bôn-sê-vích. Nhưng bạn không thể giết chết một ý tưởng bắt nguồn từ thực tế phát triển xã hội và nhu cầu của giai cấp công nhân.


Bài học bị lãng quên

Nếu các nhà lãnh đạo của CPRF là những người Cộng sản thực sự, nếu họ ủng hộ chính sách của Lênin, thì nước Nga đã đứng trước thềm một cuộc cách mạng mới. Nhưng toàn bộ vấn đề nằm ở chỗ Zyuganov và các nhà lãnh đạo của CPRF không có điểm chung nào về chương trình, chính sách và phương pháp với chủ nghĩa Bolshevik. Điều trớ trêu lớn nhất là Zyuganov đã tự coi mình là một chính khách vĩ đại và là “người theo chủ nghĩa thực tế”. Trong thực tế, anh ta là thứ hoàn toàn ngược lại. Chủ nghĩa thực tế mà anh ta cho mình là đại diện bao gồm việc liên tục ve vãn những người đứng đầu với các đại diện khác nhau của giai cấp tư sản. Anh ấy đã nắm bắt thị trường chính xác vào thời điểm nó đã đạt đến giới hạn trên quy mô thế giới và đang sụp đổ nhanh chóng ở Nga.

Hầu hết người Nga phát ngán với cái gọi là thị trường tự do và mọi hoạt động của nó. Ngay cả những tầng lớp rộng lớn tiểu tư sản, những người tạm thời được hưởng lợi từ nền kinh tế bong bóng ở Mát-xcơ-va và Pê-téc-bua cũng đã vỡ mộng trước sự sụp đổ vào mùa hè năm 1998. Ngày càng có tâm lý cho rằng “mọi thứ đã tốt hơn trước” – nghĩa là, khối lượng lớn mọi người sẽ hoan nghênh sự ra đời của một nền kinh tế kế hoạch quốc hữu hóa, nhưng với một chế độ dân chủ. Nếu các nhà lãnh đạo của CPRF bảo vệ một chương trình như vậy, chắc chắn họ sẽ nhận được sự ủng hộ của quần chúng. Nhưng họ không được chuẩn bị để ủng hộ một chương trình như vậy.

Khắp Đông Âu và Liên Xô cũ, các cựu lãnh đạo theo chủ nghĩa Stalin đã đóng vai trò nguy hiểm nhất. Ngày hôm qua, họ bảo vệ một bức tranh biếm họa quan liêu, toàn trị quái dị là “chủ nghĩa xã hội” – và do đó làm cho chủ nghĩa xã hội trở lên hôi thối trong lỗ mũi của công nhân và thanh niên. Ngày hôm nay họ lại tích cực bảo vệ chủ nghĩa tư bản. Ngay cả ở những nơi như ở Ba Lan, quần chúng đã bỏ phiếu cho họ để phản đối cơn ác mộng của chủ nghĩa tư bản, nhưng họ đã từ chối hành động chống lại bọn tư bản xã hội đen, bám lấy những mảnh vải hôi hám của “cải cách” và – dọn đường cho sự trở lại của phe phản động. Những người này thoái hóa đến mức họ thậm chí không có khả năng ủng hộ việc quay trở lại chế độ Stalin cũ. Đó không phải là tai nạn. Họ sống trong sự sợ hãi của giai cấp công nhân, và họ biết rằng, nếu họ chống lại chủ nghĩa tư bản, ngay cả khi có ý định thiết lập lại chế độ quan liêu cũ thì họ cũng không thể nắm giữ quyền lực lâu dài. Không có cơ sở để tái thiết lập một chế độ toàn trị; giai cấp công nhân quá mạnh và sẽ không sẵn sàng ngoan ngoãn chấp nhận sự cai trị lâu dài của một bộ máy quan liêu đặc quyền. Sẽ có những động thái nhằm thành lập các xô-viết, áp dụng sự kiểm soát của công nhân, hạn chế thu nhập và đặc quyền của các quan chức, thiết lập một chế độ dân chủ thực sự của công nhân – nói cách khác, quay trở lại chương trình của Lenin và Trotsky. Vì lý do này, những người được gọi là lãnh đạo Cộng sản đã từ chối đoạn tuyệt với giai cấp tư sản để dựa vào phong trào của giai cấp công nhân.

Với việc không dựa vào giai cấp công nhân để chiếm đoạt từ những tên tư sản Nga thối nát và biến chất, những người lãnh đạo Đảng Cộng sản đã trở thành một chướng ngại vật khổng lồ trên con đường của giai cấp công nhân. Tuy nhiên, ở đây chúng ta phải đối mặt với một mâu thuẫn rõ ràng. Bất chấp lịch sử của chủ nghĩa Stalin, và bất chấp thực tế là các nhà lãnh đạo CPRF đã bảo vệ các chính sách không có điểm chung nào với các chính sách của Lenin, CPRF đã giành được sự ủng hộ của quần chúng và sự ủng hộ này có xu hướng tăng lên. Tại sao? Câu trả lời khá rõ ràng: bởi vì không có sự thay thế đại chúng. Quần chúng, tức giận và thất vọng trước cái gọi là “cải cách thị trường tự do” (nghĩa là phản cách mạng tư bản chủ nghĩa) tìm cách bày tỏ sự phản đối của họ đối với chủ nghĩa tư bản và bè lũ phản động và thoái hóa của Yeltsin. Để biểu thị sự phản đối trong các cuộc bầu cử, họ sẽ bỏ phiếu thế nào? Về bản chất, cuộc bỏ phiếu cho CPRF thể hiện nỗ lực chống lại chủ nghĩa tư bản. Cần phải tính đến điều này nếu chúng ta không rơi vào sai lầm bè phái và tự cắt đứt mình khỏi một tầng lớp công nhân cánh tả ở Nga.

Nó là cần thiết để xem quá trình như nó sẽ diễn ra trong thực tế. Điều này có nghĩa là chúng ta phải cố gắng nhìn mọi thứ qua con mắt của giai cấp công nhân, không phải từ quan điểm của một nhóm nhỏ, một giáo phái. Giai cấp công nhân không bao giờ có thể thể hiện bản thân thông qua các tổ chức nhỏ – ngay cả khi chương trình của họ đúng đến nghìn phần trăm. Họ thậm chí không nhận thấy sự tồn tại của các nhóm như vậy, nhưng chắc chắn thể hiện bản thân thông qua phương tiện là các tổ chức đại chúng hiện có. Hết lần này đến lần khác, quần chúng sẽ chuyển sang CPRF (và ở một mức độ nào đó là RKRP) vì không có giải pháp thay thế nào. Mặc dù Zyuganov và cộng sự không muốn lên nắm quyền (vì những lý do đã được giải thích) và rất muốn tham gia vào một liên minh mà họ có thể sử dụng như cái cớ để không thực hiện chính sách chống chủ nghĩa tư bản, tại một thời điểm nhất định khi giai cấp công nhân bước vào hành động, họ sẽ tóm cổ chúng và đẩy chúng lên nắm quyền. Điều đó sẽ nhanh chóng tạo ra một cuộc khủng hoảng trong hàng ngũ và một loạt chia rẽ, trong đó một tầng lớp gồm những công nhân và thanh niên tiên tiến nhất sẽ chuyển sang cánh tả và tìm kiếm một chính sách cách mạng thực sự. Nếu một khuynh hướng Lêninnít thực sự hiện diện đủ số lượng trước khi quá trình phân hóa bên trong diễn ra, thì có thể truyền bá cho cánh tả những ý tưởng của chủ nghĩa Bôn-sê-vích và dẫn đến việc tạo ra một trào lưu Cộng sản đại chúng, và sau đó là đảng. Điều này sẽ thay đổi toàn diện tình hình ở nước Nga và quốc tế.

Chúng ta phải tiếp cận vấn đề của các tổ chức quần chúng, không phải một cách hình thức, mà phải cụ thể và biện chứng. Cần phải phân biệt giữa Zyuganov và người công nhân trung thực bỏ phiếu cho CPRF với niềm tin rằng anh ta đang bỏ phiếu cho Chủ nghĩa Cộng sản. Cũng trong hàng ngũ của CPRF, không chỉ có những quan chức và những người chuyên nghiệp, mà cả những người Cộng sản trung thực đang tìm kiếm con đường cách mạng. Cần phải tìm ra con đường dẫn đến những yếu tố này và nói chuyện với họ bằng ngôn ngữ mà họ hiểu, thu phục họ cho chương trình của chủ nghĩa Lênin. Những lập luận tương tự có thể được sử dụng trong trường hợp của RKRP, nơi mà bất chấp các chính sách của giới lãnh đạo theo chủ nghĩa Stalin, nhiều công nhân và thanh niên giỏi đã gia nhập đảng để tìm kiếm một chính sách Cộng sản thực sự mà họ mong mỏi.

Xô viết, công đoàn và Đảng

Thực tế là người lao động không thể thể hiện bản thân mình thông qua các tổ chức nhỏ, điều này có thể dễ dàng chứng minh ở Nga bằng cách phân tích những gì đã xảy ra trên mặt trận công đoàn. Sau sự sụp đổ của chế độ cũ, đã có sự nở rộ của cái gọi là các công đoàn nhỏ “độc lập”. Nhiều công nhân và thanh niên cánh tả đã tham gia cùng họ như một hành động từ chối các “công đoàn” cũ của chủ nghĩa Stalin. Những “công đoàn” này được đặt trong ngoặc kép bởi chúng không phải là các công đoàn theo đúng nghĩa của từ này mà chỉ là nhánh cơ quan khác của nhà nước quan liêu toàn trị (cũng như Đảng “Cộng sản”). Mục đích của họ không phải là đại diện cho công nhân, mà là đóng vai trò cảnh sát và kiểm soát họ. Điều này hoàn toàn vi phạm chính sách của Lênin về công đoàn, mà theo ông, tổ chức này phải độc lập với nhà nước – thậm chí là nhà nước của công nhân.

Giờ đây, sau một thập kỷ kinh nghiệm, một bảng cân đối cho cái gọi là công đoàn “độc lập” ở Nga là hoàn toàn có thể và cần thiết. Điều gì đã xảy ra với tất cả các kế hoạch tuyệt vời của họ để thay thế FNPR? Họ đã kết thúc trong một trò hề hoàn toàn. Với một vài ngoại lệ, hầu hết tất cả các nhóm này đã suy thoái thành các tổ chức ủng hộ tư sản tham nhũng và phản động, với rất ít hoặc không có cơ sở nào trong giai cấp công nhân. Mặt khác, FNPR, ở một mức độ lớn, đã tách khỏi nhà nước (ít nhất, nó không còn có vị trí như trong chế độ cũ; tất nhiên là có tồn tại mối liên hệ giữa nhà nước tư sản và các cơ quan công đoàn, ngay cả ở các nước tư bản “tự do nhất”). Tất nhiên, ban lãnh đạo FNPR không thực hiện chính sách vô sản chân chính hơn ban lãnh đạo CPRF. Nhưng hàng triệu công nhân vẫn ở lại trong tổ chức này, không phải vì Shmakov và đồng bọn mà là bất chấp họ. Công nhân hiểu sự cần thiết của một tổ chức công đoàn toàn Nga. Hơn nữa, hết từ vùng này đến vùng khác, công nhân ở cấp địa phương đã tiếp quản công đoàn, loại bỏ các quan chức cũ và bắt đầu biến FNPR thành một liên đoàn công nhân thực sự. Điều này cho thấy toàn bộ quá trình như vốn sẽ diễn ra trong giai đoạn tiếp theo. Nó đã hoàn toàn chứng minh tính đúng đắn trong lập luận của Lênin rằng những người cộng sản phải hoạt động ngay cả trong những công đoàn phản động nhất thì mới thu phục được công nhân. đuổi các quan chức cũ và bắt đầu biến FNPR thành một liên đoàn công nhân thực sự. 

Trong một trong những tác phẩm cuối cùng của mình – Công đoàn trong Kỷ nguyên Đế quốc suy tàn – Trotsky giải thích rằng bộ máy quan liêu của công đoàn có xu hướng hữu cơ để hợp nhất với nhà nước. Chúng ta thấy xu hướng này ở nhiều quốc gia, bao gồm cả Nga. Shmakov và các nhà lãnh đạo FNPR khác ảo tưởng rằng họ có thể đạt được thỏa hiệp với giai cấp tư sản và nhà nước sẽ bảo vệ các đặc quyền của họ, giải phóng họ khỏi sự cần thiết phải chiến đấu. Đây là một ảo tưởng ngu xuẩn. Như mọi khi, các nhà lãnh đạo theo chủ nghĩa cải cách tưởng tượng mình là những người theo chủ nghĩa thực tế vĩ đại hóa ra lại là những người không tưởng tồi tệ nhất. Cuộc khủng hoảng chung của chủ nghĩa tư bản thế giới và sự sụp đổ hoàn toàn của lực lượng sản xuất ở Nga không còn chỗ cho một sự thỏa hiệp như vậy. Những trận chiến lớn là không thể tránh khỏi, điều này sẽ đặt ra trong ngày mốt ngày hai câu hỏi về nắm quyền ở nước Nga. Các tổ chức công đoàn sẽ bị lung lay từ trên xuống dưới. Hoặc là các nhà lãnh đạo sẽ bị áp lực của quần chúng buộc phải đặt mình lên hàng đầu trong cuộc đấu tranh hoặc họ sẽ bị đẩy sang một bên và bị thay thế bởi những người sẵn sàng chiến đấu. Công nhân sẽ biến đổi các tổ chức của họ trong quá trình đấu tranh. Quá trình này đã bắt đầu ở một số khu vực và sẽ tiếp tục và sâu rộng hơn.

Việc các lãnh đạo công đoàn chần chừ và cố gắng đạt được thỏa thuận với chính quyền đang gây bất bình trong hàng ngũ. Công nhân đã phản ứng bằng cách thành lập các ủy ban đình công và các ủy ban cơ sở khác theo kiểu Xô Viết. Việc thành lập các Xô viết là một bước đi đúng đắn và cần thiết mà công nhân các khu vực đã hoặc đang thực hiện. Điều này cho thấy bản năng giai cấp không thể sai lầm của giai cấp vô sản Nga. Họ, bất chấp tất cả, vẫn lấy truyền thống cách mạng của những năm 1905 và 1917 làm điểm quy chiếu. Chúng ta đừng quên rằng, khi mới thành lập, các Xô viết chẳng hơn gì các ủy ban đình công mở rộng thành các ủy ban hành động. Vì vậy, hiện nay ở nhiều khu vực của Nga, như Anzhero-Suzhdensk, nơi Xô Viết đã chiếm giữ tất cả thị trấn ngoại trừ tên.

Tuy nhiên, việc thành lập các Xô viết và các ủy ban đình công – dù nó rất quan trọng – không giải quyết được vấn đề cơ bản mà công nhân Nga đang phải đối mặt. Xô Viết không giải quyết được gì cả. Điều quyết định là đảng lãnh đạo họ. Tháng 2 năm 1917, công nhân và binh lính thành lập các Xô viết – một bước có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với cách mạng. Nhưng trong tay của những người Menshevik và SR, họ đã trở nên bất lực. Trên thực tế, có giai đoạn (sau thất bại tháng 7) Lênin đã mô tả họ là “các Xô viết phản cách mạng” và ông đã tạm thời xem xét việc bỏ khẩu hiệu “tất cả quyền lực về tay các Xô viết” để chuyển sang “tất cả quyền lực cho các ủy ban xí nghiệp”. Tại Đức vào tháng 11 năm 1918, các Xô viết nằm trong tay các nhà lãnh đạo Đảng Dân chủ Xã hội, những người đã phản bội cách mạng và trao lại quyền lực cho giai cấp tư sản. Trong những điều kiện này, các Xô Viết nhanh chóng tan rã và chỉ là hiện tượng nhất thời. Điều tương tự cũng đã xảy ra ở Nga nếu không có Đảng Bolshevik và sự lãnh đạo của Lenin và Trotsky. Đương nhiên, chúng tôi nhiệt tình ủng hộ việc thành lập các Xô viết trên phạm vi rộng nhất có thể, và chúng tôi kêu gọi liên kết các ủy ban của người lao động trên cơ sở địa phương, khu vực và quốc gia. Nhưng điều đó phải đi đôi với việc XÂY DỰNG ĐẢNG CÁCH MẠNG, với những cán bộ TÁI TẠO, CÓ GIÁO DỤC, những người không chỉ sẵn sàng chiến đấu mà phải kiên định trên cơ sở của chủ nghĩa Mác – Lênin.


Chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa vô trị

Một số người nói rằng một đảng như vậy là không cần thiết, rằng công nhân không cần đảng, rằng nó dẫn đến quan liêu, v.v. Đó là một sai lầm chết người. Toàn bộ lịch sử phong trào công nhân quốc tế cho thấy sự cần thiết phải có một chính đảng cách mạng. Chủ nghĩa vô trị là một biểu hiện của sự bất lực, không thể đưa ra lối thoát. Tất nhiên, lý do tại sao một số công nhân và thanh niên trung thực quay sang chủ nghĩa vô trị là vì họ ghê tởm chủ nghĩa Stalin và các chính sách quan liêu và hợp tác giai cấp của các nhà lãnh đạo hiện tại, cả trên lĩnh vực chính trị và công đoàn. Điều này là dễ hiểu, nhưng sai lầm sâu sắc. Câu trả lời cho một lãnh đạo tồi không phải là không có lãnh đạo, mà là tạo ra một lãnh đạo xứng đáng với sự nghiệp của người lao động. Để từ chối làm điều này, tránh đấu tranh chính trị và “gửi tất cả cho quỷ dữ” có vẻ như rất cấp tiến, nhưng trên thực tế thì hoàn toàn ngược lại. Nó tương đương với việc bàn giao công nhân cho các nhà lãnh đạo hiện tại mà không cần đấu tranh. Để chống lại chính sách cộng tác giai cấp, cần đặt ra một giải pháp thay thế dưới hình thức một chính sách cách mạng, và do đó cũng là một khuynh hướng cách mạng.

Trotsky từng nói rằng lý thuyết của chủ nghĩa vô trị giống như một chiếc ô đầy lỗ thủng – vô dụng ngay khi trời mưa! Có rất nhiều ví dụ để chứng thực cho nhận định này. Trường hợp bi thảm nhất là Tây Ban Nha vào năm 1936. Những người công nhân vô chính phủ của CNT đã đóng vai trò anh hùng trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít. Tháng 7-1936, họ nổi dậy xông vào doanh trại, xông vào giữa bọn phát xít chỉ với gậy gộc, dao găm và vài khẩu súng săn cũ. Họ đã thành lập các Xô viết, thành lập dân quân công nhân và đặt các nhà máy dưới sự kiểm soát của công nhân. CNT và POUM (một đảng ôn hòa do những người theo chủ nghĩa Trotsky cũ lãnh đạo) là quyền lực duy nhất ở Barcelona. Chẳng mấy chốc, toàn bộ Catalonia đã nằm trong tay của những người lao động. Thống đốc tư sản của Catalonia, LLuis Companys, thực sự đã mời CNT lên nắm quyền! Nhưng các nhà lãnh đạo vô trị từ chối nắm quyền, và cơ hội đã bị mất. Vậy mà sau này, chính những quý bà và quý ông này đã không ngần ngại tham gia làm bộ trưởng trong chính phủ Mặt trận Bình dân tư sản, chính phủ có vai trò tương tự ở Tây Ban Nha như Chính phủ lâm thời ở Nga năm 1917. Điều này đã mở đường cho sự sụp đổ và tiêu vong của cuộc cách mạng. Giai cấp công nhân Tây Ban Nha tiếp tục chịu đựng 40 năm dưới chế độ độc tài Franco.

Tuy nhiên, câu trả lời gay gắt nhất cho chủ nghĩa vô trị là số phận của cuộc cách mạng Albania. Do hậu quả của cơn ác mộng do sự sụp đổ của cái gọi là cải cách thị trường (rất giống với những gì đang xảy ra ở Nga trên quy mô thậm chí còn lớn hơn), quần chúng Albania đã nổi dậy một cách tự phát. Không có tổ chức, không có lãnh đạo và không có kế hoạch rõ ràng, họ xông vào doanh trại bằng tay không. Quân đội, không chỉ binh lính mà còn cả sĩ quan, đoàn kết với họ, mở cổng doanh trại và phân phát vũ khí. Các ủy ban cách mạng được thành lập, nhất là ở miền Nam, lực lượng dân quân vũ trang đã phát động khởi nghĩa hết từ tỉnh này sang tỉnh khác. Các lực lượng phản động do Berisha cử đến đã bị những người có vũ trang đánh tan tác. Không gì ngăn nổi họ tiến vào Tirana, bởi trên đường phố những chiếc xe tải chở đầy binh lính đang hô vang các khẩu hiệu ủng hộ cách mạng.

Nhưng ở đây tầm quan trọng của lãnh đạo trở nên rõ ràng. Thiếu một nhà lãnh đạo cách mạng với quan điểm giành chính quyền và chuyển đổi xã hội, những người nổi dậy đã thất bại trong việc chiếm Tirana. Bằng cách rút lui về các khu vực địa phương của mình, họ đã tạo cơ hội cho Berisha tập hợp lại lực lượng ủng hộ hắn ở phía Bắc. Những người theo chủ nghĩa Stalin cũ của cái gọi là Đảng Xã hội do Fatos Nano lãnh đạo bước vào khoảng trống. Giống như tất cả các cựu lãnh đạo “Cộng sản” khác của Đông Âu, Nano và những người khác không có quan điểm về chủ nghĩa xã hội – thậm chí không quay trở lại chủ nghĩa Stalin. Tất cả họ đều chấp nhận “thị trường” và “dân chủ” – tức là chủ nghĩa tư bản. Trong trường hợp của Albania, điều đó cũng có nghĩa là chấp nhận chủ nghĩa đế quốc. Các đế quốc Mỹ và châu Âu khiếp sợ trước các sự kiện ở Albania và ra sức can thiệp, với hỗ trợ trực tiếp từ Ý và Hy Lạp. Nhưng sự can thiệp của nước ngoài một mình không thể tiêu diệt cuộc cách mạng. Đó là nhiệm vụ của Fatos Nano và những người theo chủ nghĩa Stalin cũ của Đảng Xã hội. Họ đã đóng vai trò giống như Noske và Scheidemann ở Đức năm 1918, đó là thực hiện cuộc phản cách mạng dưới vỏ bọc “dân chủ”. Nếu cuộc cách mạng Albania đã đi đến hồi kết, đặc biệt là với chương trình dân chủ công nhân và chủ nghĩa quốc tế của Lenin và Đảng Bolshevik, thì đó có thể là sự khởi đầu của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Balkan. Một lời từ Nano là đủ. Quần chúng sẽ hoàn thành công việc rất nhanh chóng. Ví dụ về nền dân chủ của công nhân sẽ có tác động khích lệ đối với công nhân và thanh niên ở Kosovo, Serbia, Bosnia, Hy Lạp và khắp vùng Balkan. Sẽ không có câu hỏi về sự can thiệp. Ngược lại, bè lũ tư sản phản động ở các nước láng giềng sẽ phải đối mặt với cách mạng. Nhưng Fatos Nano không có ý định thực hiện cuộc cách mạng.

Sự thất bại của cuộc cách mạng Albania đã dẫn đến những hậu quả thảm khốc nhất, không chỉ đối với người dân Albania mà còn đối với toàn bộ vùng Balkan. Bằng cách từ chối nắm quyền, các cựu “Cộng sản” người Albania đã để ngỏ cho Berisha xây dựng lại căn cứ của mình ở miền Bắc. Dựa vào tất cả các loại đầu trộm đuôi cướp, trùm ma túy và các loại cặn bã, Berisha đã cố gắng nắm quyền lại một lần nữa. Đây là một lời cảnh báo cho quần chúng Albania. Đồng thời, anh ta đã gây tò mò với cái gọi là Quân đội Giải phóng Kosovo và cung cấp vũ khí cho họ. Dòng người tị nạn Kosovar tràn vào đất nước Albania nghèo khó hiện nay sẽ làm sâu sắc thêm cuộc khủng hoảng nội bộ và tạo ra nhiều khả năng phản ứng hơn nữa. Nano, hoạt động như một con rối của chủ nghĩa đế quốc, đã mở cửa cho NATO, tổ chức đang trong quá trình biến Albania thành một trại vũ trang, với nguy cơ kéo nó vào cuộc chiến với Nam Tư. Điều này sẽ làm tròn một cơn ác mộng mới cho quần chúng. Và các Ủy ban Cứu rỗi? Những ủy ban cách mạng nào đóng vai trò truyền cảm hứng như vậy vào đầu cuộc cách mạng? Chúng ta không còn nghe thấy bất cứ điều gì từ họ. Họ bị giảm xuống chỉ còn là sự im lặng và bất lực. Nếu không có sự lãnh đạo cách mạng chân chính, không có quan điểm giành chính quyền rõ ràng, thì điều này là tất yếu. Đó luôn là câu hỏi “hoặc thế này…nếu không thế kia” đối với cuộc cách mạng Albania. Điều này chúng tôi đã giải thích ngay từ đầu. Điều này cũng đúng với Nga – thậm chí còn hơn thế. Hoặc là công nhân Nga, dựa vào sức mạnh và tổ chức của mình, nắm lấy quyền lực về tay mình, nếu không, sớm hay muộn, sẽ chuẩn bị sẵn sàng cho một đòn phản động khủng khiếp nhất. Đó là thảm họa đe dọa mà Lênin đã nói vào năm 1917. Hiện nay chúng ta đang phải đối mặt với một mối đe dọa tương tự. Phương án thay thế duy nhất là chương trình của Lênin – chương trình của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Nga và quốc tế.

Chủ nghĩa dân tộc hay chủ nghĩa quốc tế?

Chương trình của Lenin dựa trên sự độc lập hoàn toàn của giai cấp vô sản khỏi giai cấp tư sản – đặc biệt là cái gọi là cánh “tự do” của nó. Quan điểm do những người Bolshevik đưa ra chống lại chủ nghĩa cộng tác giai cấp của Menshevik và SR là QUAN ĐIỂM VỀ QUYỀN LỰC CỦA CÔNG NHÂN. Đó là ý nghĩa của “tất cả quyền lực vào tay các Xô Viết!” Thật là tương phản với các chính sách hiện đang được Zyuganov và các nhà lãnh đạo khác của CPRF theo đuổi!

Sự tương phản thậm chí còn lớn hơn khi nói đến chủ nghĩa quốc tế vô sản. Chủ nghĩa Mác là chủ nghĩa quốc tế hoặc không là gì cả. Vào buổi bình minh của phong trào của chúng ta, trong các trang của Tuyên ngôn Cộng sản, Marx và Engels đã viết: “Công nhân không có tổ quốc.” Chủ nghĩa quốc tế của Marx và Engels không phải là một sự thất thường hay là kết quả của những cân nhắc cảm tính. Nó xuất phát từ thực tế là chủ nghĩa tư bản phát triển như một hệ thống thế giới – từ các nền kinh tế và thị trường quốc gia khác nhau, nảy sinh một tổng thể duy nhất, không thể chia cắt và phụ thuộc lẫn nhau – thị trường thế giới. Ngày nay, dự đoán xuất sắc này của những người sáng lập chủ nghĩa Mác đã được chứng minh một cách xuất sắc, gần như là đi thẳng ra từ phòng thí nghiệm. Sức thống trị khủng khiếp của thị trường thế giới là thực tế quyết định nhất của thời đại chúng ta. Không một quốc gia nào, dù lớn và hùng mạnh đến đâu – không phải Hoa Kỳ, không phải Trung Quốc, cũng không phải Nga – có thể đứng ngoài sức hút mạnh mẽ của thị trường thế giới. Trên thực tế, đây là một phần nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của Liên Xô.

Học thuyết phản động “chủ nghĩa xã hội trong một nước” đi ngược lại toàn bộ sự phát triển của lịch sử. Một ý tưởng như vậy không thể tìm thấy trong các tác phẩm của Marx, Engels hay Lenin. Đó là một điều đáng ghê tởm từ quan điểm của chủ nghĩa Mác. Lênin không bao giờ quan niệm cách mạng Nga là một hành động tự thân, mà là giai đoạn đầu tiên của cách mạng thế giới. Ông đã nhiều lần tuyên bố sau năm 1917 rằng nếu cách mạng không thắng lợi ở các nước khác – đặc biệt là các nước tiên tiến ở phương Tây, thì cách mạng Nga không thể tồn tại. Bây giờ dự đoán của Lenin đã được chứng minh là đúng.

Cả đời Lênin đấu tranh chống chủ nghĩa sô vanh, đặc biệt là chủ nghĩa sô vanh Nga mà ông căm ghét. Ông sẽ kinh hoàng khi thấy chủ nghĩa sô vanh Nga quái dị, đặc trưng cho các bài phát biểu và bài viết của những người được gọi là lãnh đạo Cộng sản ở Nga ngày nay. Những người dám nói nhân danh Lênin (bất cứ khi nào họ tưởng nhớ đến Người) đều vi phạm chữ nghĩa và tinh thần của chủ nghĩa Lênin trong từng lời họ thốt ra. Còn gì sự ô nhục và tội ác hơn khi các khẩu hiệu bài Do Thái được dung thứ trong các cuộc biểu tình của Cộng sản? Và làm thế nào mà các nhà lãnh đạo Cộng sản công khai tuyên bố mình là tín đồ và thành viên của Nhà thờ Chính thống Nga – pháo đài nguyên thủy của mê tín dị đoan và phản động phong kiến? Đánh đồng những điều quái dị như vậy với chủ nghĩa cộng sản là tội ác ghê gớm nhất đối với ký ức về Lênin.

Tại thời điểm này, công nhân và thanh niên Nga đang huy động chống lại sự xâm lược tội phạm của NATO đối với Nam Tư. Trong việc này họ không đơn độc. Có một phong trào phản đối chiến tranh ở nhiều nước phương Tây. Ở Rome đã có một cuộc biểu tình phản chiến của trăm nghìn người. Ở Hy Lạp, hàng ngày có các cuộc biểu tình phản đối chiến tranh, một trong số đó đã thành công trong việc đẩy lui một đoàn xe tải của NATO. Các thủy thủ trong hải quân Hy Lạp đã từ chối tuân lệnh đi đến vùng chiến sự. Các tổ chức công đoàn đang bắt đầu vận động chống lại sự xâm lược của chủ nghĩa đế quốc. IG Metal, công đoàn lớn nhất ở Đức, đã ra mặt phản đối chiến tranh. Một cuộc họp gồm 500 quản lý cửa hàng đã tổ chức một cuộc họp ở Milan để kêu gọi tổng đình công, và đã có một cuộc tổng đình công kéo dài bốn giờ ở một khu vực (Messa). Các công nhân đường sắt Hy Lạp đã cảnh báo rằng nếu NATO gửi bộ binh đến Nam Tư, họ sẽ tổ chức một cuộc tổng đình công để ngăn chặn việc di chuyển của quân đội và vật tư. Đây là chủ nghĩa quốc tế vô sản trong hành động!

Sự phản đối chủ nghĩa đế quốc Mỹ của công nhân và thanh niên Nga là một hiện tượng tiến bộ. Nhưng nó phải dựa trên các chính sách của Lênin, và không chuyển hướng theo đường lối dân tộc chủ nghĩa. Các thế lực phản động đang ra sức lợi dụng bản năng lành mạnh của người lao động Nga cho mục đích riêng của chúng. Lê-nin đã dạy chúng ta rằng giai cấp vô sản phải luôn giữ vững quyền độc lập giai cấp của mình, không được lẫn lộn ngọn cờ của mình với các lực lượng tư sản và tiểu tư sản. Lênin đại diện cho chủ nghĩa quốc tế, độc lập giai cấp và cách mạng. Điều kiện đầu tiên để theo đuổi một chính sách đối ngoại tiến bộ là quyền lực phải chuyển vào tay giai cấp công nhân. Yêu cầu đầu tiên của chúng ta phải là PHÁ VỠ VỚI TƯ SẢN. Cách tốt nhất để giúp đỡ nhân dân lao động Nam Tư là đoàn kết các lực lượng của giai cấp công nhân để chấm dứt chế độ phản động tư sản ở Nga và trở lại chế độ dân chủ công nhân và chính quyền xô viết chân chính. Sau đó, công nhân Nga có thể hỗ trợ thực sự cho công nhân Nam Tư bằng cách giúp lật đổ các chế độ tư bản phản động ở Đông Âu và đưa cuộc đấu tranh cách mạng vào chính các nước NATO. Đó là cách duy nhất để cứu, không chỉ Nam Tư, mà cả nước Nga. Sau đó, công nhân Nga có thể hỗ trợ thực sự cho công nhân Nam Tư bằng cách giúp lật đổ các chế độ tư bản phản động ở Đông Âu và đưa cuộc đấu tranh cách mạng vào chính các nước NATO. Đó là cách duy nhất để cứu, không chỉ Nam Tư, mà cả nước Nga. Sau đó, công nhân Nga có thể hỗ trợ thực sự cho công nhân Nam Tư bằng cách giúp lật đổ các chế độ tư bản phản động ở Đông Âu và đưa cuộc đấu tranh cách mạng vào chính các nước NATO.

Bằng cách công khai ve vãn các lực lượng phản động, các nhà lãnh đạo của CPRF đang chuẩn bị một thảm họa trong tương lai cho công nhân Nga. Trên thực tế, họ đang khuyến khích chủ nghĩa sô vanh Đại Nga như một cái cớ để không thực hiện chính sách của Lênin – tức là chính sách của chủ nghĩa quốc tế và độc lập giai cấp. Họ truyền bá tư tưởng sai lầm rằng có những nhà tư bản “xấu” (nước ngoài) và những nhà tư bản “tốt”, “yêu nước” (Nga). Vì vậy, họ hy vọng sẽ ném bụi vào mắt công nhân để che giấu sự đầu hàng của họ trước chủ nghĩa tư bản. Trên con đường này chỉ có những thảm họa mới. Cần phải nói lên sự thật: giai cấp công nhân không có con đường tiến lên trên cơ sở chủ nghĩa tư bản. Cần phải sung công các nhà tư bản – không chỉ các nhà tư bản nước ngoài – và thiết lập lại nền kinh tế kế hoạch hóa được quốc hữu hóa, nhưng dưới sự quản lý và kiểm soát dân chủ của giai cấp công nhân. Không làm được điều này chắc chắn sẽ dọn đường cho phản ứng dữ dội nhất.

Chủ nghĩa tư bản đang lâm vào khủng hoảng trên phạm vi thế giới. Cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản Nga – một chủ nghĩa tư bản yếu kém, thoái hóa, thối nát, không có gốc rễ, không có triển vọng – chỉ là một biểu hiện gay gắt của thực tế này. Và cuộc khủng hoảng chỉ mới bắt đầu. Sự sụp đổ của châu Á tiếp tục và sâu sắc hơn. Nó đã lan sang Nga và Brazil. Cuộc khủng hoảng Brazil đang lan sang phần còn lại của Mỹ Latinh, nơi gây ra mối đe dọa trực tiếp cho chính Hoa Kỳ. Trong vấn đề thương mại thế giới, căng thẳng giữa Hoa Kỳ, Châu Âu, Nhật Bản và Trung Quốc đang gia tăng. Có một cuộc đấu tranh khốc liệt cho các thị trường ở khắp mọi nơi. Sự tồn tại của một lượng lớn hàng hóa chưa bán được ở châu Á và các nơi khác gây áp lực lên giá cả và tỷ suất lợi nhuận. Thêm vào các vấn đề, thị trường chứng khoán Hoa Kỳ được định giá quá cao và có thể gây ra sự sụp đổ bất cứ lúc nào. Vì trước đây là cường quốc của chủ nghĩa tư bản thế giới, Nhật Bản, đang trong một cuộc khủng hoảng sâu sắc và nền kinh tế Đức đang chậm lại, sự sụp đổ không thể tránh khỏi của sự bùng nổ ở Hoa Kỳ sẽ tạo ra sự suy thoái sâu sắc nhất trong nền kinh tế thế giới kể từ những năm 1930. Điều này sẽ gây ra những hậu quả thảm khốc đối với chủ nghĩa tư bản Nga vốn đã ở trong tình trạng suy yếu nghiêm trọng và sẽ không thể chịu được cú sốc.

Các chiến lược gia của chủ nghĩa tư bản ở phương Tây nhìn về tương lai với sự sợ hãi. Một trong những người chơi chính trên thị trường thế giới, George Soros, vừa viết một cuốn sách trong đó ông dự đoán rằng hệ thống tư bản chủ nghĩa sẽ tự hủy diệt chính mình. Tất nhiên, đây không phải là thực tế. Không có cái gọi là cuộc khủng hoảng cuối cùng của chủ nghĩa tư bản (lý thuyết sai lầm này do những người theo chủ nghĩa Stalin đưa ra trong giai đoạn 1929-33 để biện minh cho chính sách cực tả của “Thời kỳ thứ ba”). Lenin giải thích rằng hệ thống tư bản chủ nghĩa sẽ không tự động sụp đổ bởi chính nó. Nó phải bị đánh đổ bởi phong trào có ý thức của giai cấp công nhân. Chính vì lý do đó cần phải có một Đảng. Trừ khi và cho đến khi chủ nghĩa tư bản bị giai cấp vô sản lật đổ, nó sẽ luôn tìm cách thoát khỏi khủng hoảng. Vấn đề lối thoát là GÌ? Trong trường hợp của Nga, nếu công nhân không nắm quyền, giải pháp khả dĩ duy nhất (ít nhất là trong một thời gian) là đè bẹp giai cấp công nhân dưới gót sắt của chế độ độc tài. Thật ngu ngốc khi tưởng tượng rằng bất kỳ kết quả nào khác đều có thể xảy ra, xét đến mức độ nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng. Nhưng quan điểm như vậy tất yếu sẽ kích động giai cấp công nhân dốc toàn lực chiến đấu.

Phương Tây lo sợ về một tháng Mười mới, và đang ném tiền vào Nga – vào lúc này – trong nỗ lực chống đỡ cho Yeltsin. Vô ích! Bọn tư sản Nga thoái hóa, trong khi bóc lột công nhân Nga, không sẵn sàng đầu tư vào sản xuất mà gửi tiền vào tài khoản ngân hàng ở Thụy Sĩ và Đức. Trong khi đó, nền kinh tế ngày càng lún sâu vào khủng hoảng, đe dọa ngày càng nhiều người dân bị hủy hoại, khốn khổ, thậm chí là đói. Đây là ý nghĩa thực sự của “sự tự do” mà chủ nghĩa tư bản đã hứa với các dân tộc Liên Xô!

Nhân dân lao động Nga đã rút ra kết luận từ cơn ác mộng của chủ nghĩa tư bản. Họ đang chờ đợi tiếng gọi đấu tranh để thay đổi xã hội, nhưng cuộc gọi đã không đến. Thay cho một chính sách theo chủ nghĩa Lênin, chỉ có những âm mưu của nghị viện, trò chơi bộ trưởng, chính trị liên minh và các thủ đoạn ở cấp cao nhất. Thay vì dựa vào phong trào độc lập của giai cấp công nhân, dựa vào các Xô-viết và ủy ban đình công, những người lãnh đạo lại dựa vào chính sách hợp tác giai cấp và khẩu hiệu sáo rỗng nhất, khẩu hiệu “đoàn kết dân tộc” – điều đồng nghĩa với sự “thống nhất” của con ngựa với kẻ cưỡi ngựa, kẻ sẽ không ngần ngại thúc vào hông nó. Đây không phải là chủ nghĩa cộng sản, mà là phản đề của nó. Đó là chính sách kìm hãm giai cấp công nhân và lệ thuộc nó vào giai cấp tư sản.


Trở lại với Lênin!

Năm 1938, Leon Trotsky – người cùng với Lênin, là kiến ​​trúc sư của chiến thắng Tháng Mười – đã viết rằng cuộc khủng hoảng của loài người xét cho cùng có thể được quy về cuộc khủng hoảng về quyền lãnh đạo của giai cấp vô sản. Những lời này vẫn đúng biết bao! Ngày nay, giai cấp công nhân Nga mạnh hơn gấp ngàn lần so với năm 1917. Nhân dân lao động mong muốn một sự thay đổi căn bản. Đó là lý do tại sao sự hỗ trợ cho CPRF ngày càng tăng, không có lý do nào khác. Với sự lãnh đạo đúng đắn, không có thế lực nào trên trái đất có thể ngăn cản họ chuyển đổi xã hội. Nhưng những người tự gọi mình là Cộng sản và các nhà lãnh đạo công đoàn đang làm mọi thứ trong khả năng của mình để kìm hãm phong trào và củng cố nền cai trị ô nhục và mất uy tín của các chủ ngân hàng tư bản. Nó làm người ta nhớ đến câu Kinh Thánh: “Ta xin ngươi bánh mà ngươi lại cho ta một hòn đá”.

Ngày nay, những người Cộng sản muốn tìm hiểu nguyên nhân sụp đổ của Liên Xô chỉ có thể tìm thấy câu trả lời trong các tác phẩm của Leon Trotsky, đặc biệt là kiệt tác Cuộc cách mạng bị phản bội viết vào năm 1936, dự đoán toàn bộ quá trình  đã xảy ra cho đến thời điểm hiện tại với độ chính xác đáng kinh ngạc.

Tất nhiên, vẫn còn một số rào cản tâm lý quan trọng cản trở một người Cộng sản Nga mong muốn có được kiến ​​thức về các tư tưởng của Trotsky. Ba thế hệ của một chiến dịch dối trá, vu khống và xuyên tạc có hệ thống, trong đó Trotsky, nhà cách mạng suốt đời, nhà lãnh đạo của Cách mạng Tháng Mười, người sáng lập Hồng quân, tác giả của các tuyên ngôn và luận cương chính của bốn kỳ đại hội đầu tiên của Quốc tế Cộng sản, được miêu tả là “kẻ thù tồi tệ nhất của chủ nghĩa Lênin” và là tay sai của Hitler. Tệ hơn nữa, một số người tự mô tả mình là “những người theo chủ nghĩa Trotsky” ở Nga đã đưa ra một bức tranh biếm họa ác ý về chủ nghĩa Trotsky đến mức họ ngay lập tức bị xa lánh bởi bất kỳ công nhân Cộng sản nào mà họ tiếp xúc. Đó chưa bao giờ là phương pháp của Trotsky, người cũng giống như Lenin, luôn thích thuyết phục bằng lập luận, trên nguyên tắc “kiên nhẫn giải thích.” Trên thực tế, tư tưởng, phương pháp và truyền thống của Lenin và Trotsky về cơ bản là giống nhau. Khẳng định này có thể được kiểm tra rất dễ dàng bởi bất kỳ người trung thực nào chịu khó nghiên cứu các tác phẩm của Trotsky vì chính họ.

Sau nhiều thập kỷ trong đó “chủ nghĩa Trotsky” – nghĩa là chủ nghĩa Bolshev-Lenin chân chính – bị tách biệt một cách thô bạo khỏi phong trào Cộng sản ở Nga, giờ đây con đường đã rộng mở để tiếp cận hàng ngũ các Đảng Cộng sản. Dọc theo con đường này là sự cứu rỗi cho phong trào cộng sản ở Nga. Một khi các nhà hoạt động của các tổ chức công nhân và cộng sản áp dụng chương trình Bolshevik-Leninist, vấn đề sẽ được giải quyết. Để thực hiện được điều này, cần có hai điều: kinh nghiệm của giai cấp công nhân về các sự kiện vĩ đại, và công việc kiên nhẫn giải thích và xây dựng đội ngũ một cách có hệ thống.

Hỡi các công nhân Nga! Hỡi những người cộng sản Nga! Đã đến lúc để trở lại với những ý tưởng và chương trình của Lênin! Đã đến lúc cần phải cùng nhau chiến đấu để thay đổi hướng đi. Không còn hợp tác giai cấp và thao túng với giai cấp tư sản! Vì một chính sách vô sản độc lập! Không phải lúc này thì còn là lúc nào?

Chỉ có chương trình Tháng Mười của chính quyền Xô Viết, nền dân chủ của công nhân và chủ nghĩa quốc tế mới có thể chỉ ra con đường phía trước. Đó là chương trình mà những người theo chủ nghĩa Marx chân chính phải cung cấp cho công nhân Nga.


Ted Grant, Xu hướng Quốc tế của chủ nghĩa Marx, 18 tháng bảy 2005

Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận