Cuộc chiến của Karl Marx chống lại ‘chủ nghĩa xã hội nhà nước’

Ferdinand Lassalle (1825-64) thường được mô tả là “người sáng lập nền dân chủ xã hội Đức”. Nhưng ảnh hưởng của ông đối với phong trào công nhân Đức chủ yếu là tai hại.


Lassalle đã tham gia cuộc cách mạng năm 1848 và do đó phải ngồi tù một năm. Nhưng, không phải vì thế mà ông ấy trở thành người tranh đấu cho công nhân. Frederick Engels cho biết, trong một bức thư gửi Karl Kautsky vào năm 1891, rằng cho tới tận năm 1862, Lassalle vẫn là “một nhà dân chủ Phổ đặc biệt tầm thường với một khuynh hướng Bonapartist mạnh mẽ” trước khi “đột ngột chuyển hướng vì những lý do hoàn toàn cá nhân”. Lassalle đã cố gắng không thành công để đảm nhận vai trò lãnh đạo Những người cấp tiến, một trong những đảng tư sản chính. Sự căm ghét của ông đối với giai cấp tư sản tự do và việc quay sang giai cấp công nhân phần lớn là do sự phẫn nộ trước việc những người theo chủ nghĩa tự do từ chối ông.

Vào những năm 1860, phong trào đấu tranh bùng nổ ở châu u khi giai cấp công nhân phục hồi sau thất bại năm 1848. Điều này đã giúp cho việc thành lập tổ chức công nhân quốc tế, hay Quốc tế thứ nhất, mà trong đó Karl Marx và Engels là những nhân vật chủ chốt.

Vào đầu những năm 1860, phong trào công nhân Đức bắt đầu được tổ chức, đặc biệt là ở Leipzig. Tuy nhiên, thiếu kinh nghiệm và sự tự tin, những công nhân này cảm thấy cần một người phát ngôn và tìm đến Lassalle. Vẫn còn đau đớn vì bị những người theo chủ nghĩa tự do từ chối, Lassalle đã nhìn thấy cơ hội để đặt mình vào vị trí lãnh đạo phong trào công nhân đang phát triển này và sử dụng nó như một phương tiện để thúc đẩy các ý tưởng của riêng mình. Ông thành lập Tổng hội Công nhân Đức (GGWA) vào năm 1863 và điều hành nó như một chế độ độc tài.

Lassalle đã bị giết trong một cuộc đấu tay đôi vào năm 1864, nhưng những ý tưởng của ông đã nhanh chóng trở thành bá chủ trong một bộ phận của phong trào Đức. Nhà văn theo chủ nghĩa Mác Hal Draper đã nhận xét rằng, vào thời điểm Đệ nhất Quốc tế được thành lập năm 1864, “Mặt trận Đức đã bị chủ nghĩa Lassalle chiếm ưu thế trước”. Dưới thời Lassalle, phong trào mới “được bao bọc trong lớp vỏ của chế độ độc tài quan liêu, được nuôi dưỡng trên nền chính trị sùng bái nhà nước và được giáo dục theo tinh thần Sùng bái cá nhân lãnh đạo”.

Trung tâm tư tưởng của Lassalle là “chủ nghĩa xã hội nhà nước”. Giống như nhà triết học Georg Hegel (người mà ông được học ở trường đại học), ông tin rằng sứ mệnh của nhà nước là hoàn thành việc phát triển quyền tự do của con người. Do đó, vai trò của các phong trào công nhân hay quần chúng về cơ bản là gây áp lực để buộc nhà nước phải hoàn thành vai trò lịch sử của mình. Marx từ lâu đã bác bỏ ý tưởng cho rằng nhà nước có thể là bất kỳ loại lực lượng tiến bộ nào, ông lập luận rằng “chủ nghĩa xã hội nhà nước” chỉ là một hình thức của chủ nghĩa cải cách.

Đối với những người theo chủ nghĩa cải cách, thay đổi xã hội diễn ra thông qua việc sửa đổi nhà nước hiện có. Nhưng đối với Marx, câu hỏi đặt ra là ai kiểm soát xã hội – tức là giai cấp nào cai trị nhà nước. Do đó, mục tiêu phải là một sự thay đổi trong quyền lực giai cấp. Thái độ thù địch không khoan nhượng đối với nhà nước, công cụ của giai cấp thống trị xã hội, là trọng tâm trong suy nghĩ của Marx và Engels – ngay cả trước khi Công xã Paris năm 1871 chứng minh trên thực tế rằng công nhân không thể đơn giản tiếp quản nhà nước hiện có mà phải đập tan nó và thay thế nó bằng một loại nhà nước mới.

Tuy nhiên, đối với Lassalle, nhà nước là “ngọn lửa lâu đời của mọi nền văn minh”. Và ông không phân biệt giữa quan niệm lý tưởng của mình về nhà nước với bản chất áp bức của nhà nước như nó thực sự tồn tại.

Trong thực tế, điều này có nghĩa là đứng về phía phản động. Như Draper đã chỉ ra trong tập thứ tư tác phẩm kinh điển của ông: Lý thuyết cách mạng của Karl Marx, “vào năm 1862, những người theo chủ nghĩa cải cách vẫn còn băn khoăn giữa cuộc tranh đoạt của các giai cấp thống trị, giai cấp cũ vẫn kiểm soát nhà nước [quý tộc phong kiến] và giai cấp mới thống trị nền kinh tế [các nhà tư bản]. Lassalle đã chọn quyền lực rõ ràng vẫn độc quyền trong tay bộ máy nhà nước”. Tức là ông hướng về một nhà nước dựa vào giai cấp phản động cũ; cụ thể là, ông đã cố gắng thành lập một liên minh bí mật với Thủ tướng Phổ Bismarck để chống lại giai cấp tư sản tự do.

Tháng 5 năm 1863, Lassalle viết thư cho Bismarck. Anh ta khoe khoang về quyền lực độc đoán của mình trong cái mà anh ta công khai gọi là “đế chế” của riêng mình (GGWA), và khẳng định rằng “giai cấp công nhân sẽ cảm thấy trong bản năng khuynh hướng hướng về chế độ độc tài một khi… nó bị thuyết phục rằng nhà độc tài sẽ hành động vì lợi ích của mình”. Ông đề xuất một liên minh chống tư sản: một liên minh giữa nhà vua, tầng lớp quý tộc, quân đội và phong trào công nhân của ông.

Lassalle mô tả chế độ độc tài cá nhân của ông đối với phong trào công nhân là “nguyên mẫu trên quy mô nhỏ của hình thức xã hội kế tiếp của chúng ta trên quy mô lớn”, không có “tinh thần bất mãn” và “quan điểm cá nhân” khó chịu đặc trưng cho chủ nghĩa tự do.

Những giao dịch bí mật giữa Lassalle với Bismarck đã không có gì xảy ra, chúng bị bại lộ ngay sau khi ông qua đời. Engels nhận xét với Kautsky rằng chúng “chắc chắn sẽ dẫn anh ta đến sự phản bội thực sự phong trào, nếu anh ta may mắn…không bị bắn bỏ”.

Lassalle đề xuất cái mà ông gọi là “luật sắt về tiền lương”, dựa trên lý thuyết dân số của Malthusian. Ông viết: “Dưới quy luật cung và cầu lao động, mức lương trung bình luôn được giảm xuống mức đủ sống cần thiết… cần thiết để sinh tồn và sinh sản”. Tiền lương không thể được tăng trên mức trung bình trong bất kỳ khoảng thời gian nào, vì dân số lao động sẽ tăng lên, khiến tiền lương lại giảm xuống. Mặt khác, tiền lương không thể duy trì lâu dưới mức đủ sống, vì nghèo đói sẽ dẫn đến giảm số lượng công nhân, và do đó, nguồn cung cho các nhà máy sẽ giảm.

Nhưng như Marx đã lập luận trong Phê phán Cương lĩnh Gotha, nếu đây là một quy luật tự nhiên thì nó không thể bị phá bỏ, bởi vì nó sẽ chi phối “không chỉ hệ thống lao động làm công ăn lương mà mọi hệ thống xã hội”. Cái gọi là quy luật chỉ đơn giản là cho phép các nhà kinh tế tư sản lập luận rằng “chủ nghĩa xã hội không thể xóa bỏ nghèo đói, thứ vốn là tự nhiên, mà chỉ có thể làm cho nó trở nên phổ quát”. Như Engels đã lưu ý trong một bức thư gửi cho August Bebel năm 1875, “Marx đã chứng minh… trong cuốn Tư bản rằng các quy luật điều chỉnh tiền lương rất phức tạp… chúng không hề cứng rắn mà trái lại rất co giãn”.

Kết luận chính trị phát sinh từ “luật sắt” của Lassalle là người lao động không thể cải thiện điều kiện sống bằng nỗ lực của chính họ, vì vậy không ích gì khi tham gia vào cuộc đấu tranh kinh tế tập thể hoặc thành lập công đoàn. Logic của phái Lassalle gợi ý rằng cách duy nhất để người lao động có thể thoát khỏi “quy luật sắt về tiền lương” là trở thành ông chủ của chính họ.

Và làm thế nào để họ làm điều đó? Giải pháp của Lassalle là các khoản vay lớn từ nhà nước để thành lập các hợp tác xã quy mô lớn mà cuối cùng sẽ tiếp quản tất cả các ngành và tất cả các nhánh của nền kinh tế. Quá trình này sẽ dẫn đến chủ nghĩa xã hội, ở một thời điểm nào đó trong tương lai xa. Vì vậy, nhà nước, chứ không phải giai cấp công nhân, là tác nhân cho sự biến đổi xã hội mà không cần đến một cuộc cách mạng nào. Do đó, yêu cầu trung tâm của phong trào phải là quyền bầu cử phổ thông (cho nam giới). Thật vậy, Lassalle lập luận rằng đó phải là yêu cầu duy nhất của phong trào công nhân. Ông khuyến khích những người theo ông “làm ngơ trước tất cả những gì không được gọi là quyền bầu cử phổ thông và trực tiếp”:

“Khi [phổ thông đầu phiếu] đến… sẽ có những người ở bên cạnh bạn, những người hiểu rõ vị trí của bạn và tận tâm với chính nghĩa của bạn – những người được trang bị thanh kiếm chói lòa của khoa học, những người biết cách bảo vệ lợi ích của bạn. Và khi đó các bạn, những tầng lớp không có tài sản, sẽ chỉ biết đổ lỗi cho bản thân về việc mình đã bỏ phiếu tồi thế nào nếu để cho những người đại diện cho chính nghĩa của các bạn vẫn là thiểu số.”

“Những người đàn ông được trang bị thanh kiếm chói lòa của khoa học” này – những người như anh ta! – sau đó sẽ lập pháp để đảm bảo rằng nhà nước cung cấp các khoản vay để thành lập các hợp tác xã sản xuất.

Lassalle tin rằng mặc dù viện trợ nhà nước tự nó không tạo nên chủ nghĩa xã hội, nhưng nó vẫn chứa đựng “mầm mống” cho nó. Nhà nước và những người cai trị nó có lẽ không được mong đợi để hiểu điều này; nếu không họ sẽ khó tài trợ cho sự sụp đổ của chính họ. Nhưng người lao động cũng chẳng thể hiểu nổi nó!

Cách tiếp cận của Lassalle – không chỉ là chủ nghĩa xã hội từ trên cao, mà còn là chủ nghĩa xã hội gian manh – là sự đối lập hoàn toàn với sự tự giải phóng có ý thức của giai cấp công nhân.

Marx đã lên án Realpolitik của Lassalle, người mà ý tưởng thực dụng chỉ phù hợp với các điều kiện hiện có. Nhưng anh ấy hiểu sự hấp dẫn của nó đối với tầng lớp lao động vẫn còn mất tinh thần sau đêm dài phản động, và vì vậy sẵn sàng “ngợi ca một vị cứu tinh lang băm như vậy, người đã hứa sẽ đưa họ vào miền đất hứa ngay lập tức”.

Sau cái chết của Lassalle, Marx và Engels bắt đầu đấu tranh với những ý tưởng của ông trong phong trào công nhân. Họ phản đối dự án của Lassalle nhằm thu về tư bản nhà nước cho các hợp tác xã sản xuất, với lý do rằng điều này sẽ chỉ giúp chính phủ vươn vòi vào phong trào công nhân.

Như Marx đã viết trong thư gửi Engels: “Nhà nước Phổ chẳng thể nào dung thứ cho các liên minh và công đoàn của công nhân… Ngược lại, sự hỗ trợ của chính phủ cho một số xã hội hợp tác tệ hại chỉ là cái thứ tào lao cốt để tô điểm bộ cánh cho nó. Đồng nghĩa giới quan chức sẽ đỡ bốc mùi hơn… làm biến chất những người lao động tích cực nhất, làm suy yếu toàn bộ phong trào”. “Ảo tưởng không may” của Lassalle rằng “một chính phủ Phổ sẽ thực hiện một cuộc can thiệp xã hội chủ nghĩa” chắc chắn sẽ gây thất vọng; và “danh dự của đảng công nhân đòi hỏi đảng phải bác bỏ những ảo tưởng như vậy, ngay cả trước khi sự rỗng tuếch của chúng bị kinh nghiệm chọc thủng. Giai cấp công nhân làm cách mạng hoặc không gì cả”.

Vào tháng 1 năm 1965, Marx đã viết thư cho JB Schweitzer, hiện là lãnh đạo của GGWA, “nói với anh ta rằng anh ta phải tự mình chống lại Bismarck, rằng cũng phải bỏ ngay trò ve vãn Bismarck từ phía đảng công nhân”. Nhưng trong cuộc bầu cử năm 1866, GGWA đã ủng hộ việc ứng cử của Bismarck. Vào thời điểm này, Marx và Engels đã từ chức với tư cách là người đóng góp cho ấn phẩm của GGWA.

Phái Lassalle suy tàn khi quyền lực chính trị của giai cấp tư sản ngày càng lớn và sức nặng của nó trong nhà nước tăng lên. Đến năm 1875, đã có những cuộc thảo luận về khả năng đoàn kết giữa những người theo Lassalle và những người Eisenacher – nhóm do August Bebel và Wilhelm Liebknecht lãnh đạo, những người tự coi mình là những người theo chủ nghĩa Marx và đã thành lập Đảng Lao động Dân chủ Xã hội vào năm 1869.

Marx tin rằng các lực lượng Lassallean buộc phải hợp nhất một mặt là vì sự yếu kém của họ, mặt khác là sự độc lập ngày càng tăng của các công đoàn và ảnh hưởng của Đảng Dân chủ Xã hội. Tuy nhiên, điều anh ấy ưa thích không phải dành cho một tổ chức thống nhất, mà là một giai đoạn hoạt động chung, một loại mặt trận thống nhất. Theo quan điểm của ông, bước quan trọng không phải là thỏa thuận về một chương trình chung mà là sự tiến bộ của phong trào công nhân: “Mỗi bước của phong trào thực sự quan trọng hơn hàng chục chương trình”, ông viết trong một bức thư gửi cho Wilhelm Bracke.

Nhưng Bebel và Liebknecht không kiên nhẫn nổi và bị cám dỗ bởi chủ nghĩa cơ hội, coi sự thống nhất của tổ chức như một con đường tắt. Tại một hội nghị ở Gotha năm 1875, hai tổ chức đã hợp nhất để thành lập Đảng Lao động Xã hội Chủ nghĩa của Đức theo một chương trình dự thảo đưa ra những nhượng bộ lớn đối với phái Lassalle. Chương trình cam kết rằng đảng sẽ hoạt động “bằng mọi biện pháp hợp pháp để mang lại một nhà nước tự do”. Nó không chứa bất kỳ phân tích nào của Marx về phát triển kinh tế, không có từ nào về cách mạng, không có thảo luận nào về đặc tính giai cấp của nhà nước. Sự thống nhất đã đạt được với cái giá phải trả là nguyên tắc chính trị.

Marx đã viết một bài phê bình gay gắt về chương trình Gotha, chương trình mà ông mô tả là “vì tất cả tiếng kêu dân chủ của nó… bị vấy bẩn hoàn toàn bởi niềm tin nô lệ của giáo phái Lassalle vào nhà nước”. Để tóm tắt những phản đối chính của ông:

Đầu tiên, chương trình xử lý nhà nước “như một thực thể độc lập”, trong khi nhà nước Đức được đề cập thuộc về giai cấp phản động. Chương trình “chỉ tấn công giai cấp tư bản chứ không tấn công địa chủ” và mô tả tất cả các giai cấp khác ngoài giai cấp công nhân là “một khối phản động”. Sự xuyên tạc kiểu Lassallean này đã được sử dụng để “tạo ra màu sắc tốt đẹp cho liên minh của ông ta với các lực lượng chuyên chế và phong kiến”.

Hơn nữa, phong trào công nhân, một lần nữa theo Lassalle, được nhìn nhận “từ quan điểm quốc gia hạn hẹp nhất”. Marx lập luận rằng tính quốc gia trong cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chỉ là hình thức chứ không phải thực chất. Nhà nước quốc gia tồn tại trong khuôn khổ thị trường thế giới và hệ thống các quốc gia. Do đó, chương trình đã giảm chủ nghĩa quốc tế thành “tình anh em quốc tế của tất cả các dân tộc” mà không có nội dung giai cấp.

Thứ hai, chương trình đề cao khẩu hiệu “các hiệp hội hợp tác với sự trợ giúp của nhà nước … ở quy mô mà từ đó tổ chức xã hội chủ nghĩa của toàn bộ lao động sẽ hình thành”. Phản ứng của Marx rất gay gắt: “Thật xứng đáng với trí tưởng tượng của Lassalle rằng, cũng như một tuyến đường sắt mới thì một xã hội mới cũng có thể được xây dựng bằng các khoản vay của nhà nước!” Bản thân Marx không phản đối các hợp tác xã, hay phản đối việc đưa ra các yêu cầu đối với nhà nước. Nhưng ông phản đối những cải cách như vậy được coi là mục tiêu, một sự thay thế cho một chương trình xã hội chủ nghĩa trọn vẹn.

Đối với Marx, chủ nghĩa cải cách không chỉ đơn giản có nghĩa là ủng hộ cải cách, mà đúng hơn là “gán một ý nghĩa bao trùm nhất định cho cuộc đấu tranh cho cải cách, nâng nó lên thành tất cả và mục đích cuối cùng của chính trị”. Những người theo chủ nghĩa Marx đấu tranh cho cải cách một phần để cải thiện điều kiện của người lao động, nhưng quan trọng hơn là một cách phát triển ý thức và sự tự tin của phong trào công nhân để vượt ra ngoài cải cách và thách thức chính hệ thống tư bản chủ nghĩa.

Đối với các xã hội hợp tác, “chúng chỉ có giá trị chừng nào chúng là những sáng tạo độc lập của công nhân chứ không phải là sự bảo hộ của chính phủ hay của tư sản”. Từ khóa ở đó là “độc lập”.

Tương tự như vậy, Marx đã rút ra ý nghĩa chính trị của yêu cầu về “viện trợ của nhà nước”: “Thay vì phát sinh từ quá trình cải biến cách mạng xã hội, ‘tổ chức xã hội chủ nghĩa của toàn thể lao động’ ‘phát sinh’ từ sự viện trợ của nhà nước, thứ mà nhà nước dành cho hợp tác xã của những người sản xuất và do nhà nước, chứ không phải công nhân, kêu gọi thành lập ”.

Do đó, chương trình Gotha, theo Lassalle, đã bỏ qua nhu cầu cách mạng và giao vai trò sáng tạo cơ bản cho nhà nước.

Engels, trong bức thư gửi Bebel, cũng bác bỏ ý tưởng về “nhà nước tự do”: “Vì nhà nước chỉ là một thiết chế quá độ được sử dụng trong đấu tranh, trong cách mạng, nhằm trấn áp kẻ thù của mình bằng vũ lực, nên nó hoàn toàn vô nghĩa khi nói về một nhà nước tự do của nhân dân … ngay khi có thể nói về tự do, nhà nước như vậy sẽ không còn tồn tại”.

Lo ngại cho tương lai của tổ chức xã hội chủ nghĩa Đức, sự phê phán của Marx đã bị đàn áp trong nhiều năm, cũng như những đoạn trong các bài viết mà ông chỉ trích Lassalle nhiều nhất. Như Hal Draper đã mô tả, Chương trình Gotha là “cầu nối giữa chủ nghĩa cải cách xã hội chủ nghĩa nhà nước của Lassalle, thứ mà bản thân chẳng có tương lai, với chủ nghĩa cải cách tư sản thuộc loại đại diện cho tương lai của nền dân chủ xã hội Đức”.

Bất chấp việc Đảng Dân chủ Xã hội chính thức bác bỏ Chủ nghĩa Lassallean và việc áp dụng chương trình Erfurt có vẻ cấp tiến hơn vào năm 1891, một mức độ nhầm lẫn về nhà nước – và do đó là mầm mống của chủ nghĩa cải cách – vẫn còn tồn tại trong đảng Đức.


Tess Lee Ack, báo Cờ đỏ, 01 Tháng một 2023

 

Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận