“NHÀ NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG” CỦA LENIN

“Nếu họ giết tôi, tôi yêu cầu bạn hãy xuất bản cuốn sổ tay của tôi: Chủ nghĩa Mác về Nhà nước (nó đã bị bỏ lại ở Stockholm). Nó được đóng trong bìa màu xanh… Có một số nhận xét và ghi chú… Tôi tin rằng nó quan trọng”.



Với sự khiêm tốn đặc trưng, Lênin đã viết như vậy vào tháng 7 năm 1917. Cái mà ông đề cập đến chính là cuốn Nhà nước và Cách mạng, một trong những đóng góp quan trọng nhất cho tư tưởng của chủ nghĩa Mác trong thế kỷ trước.

Cuốn sách nhỏ và ngắn được viết để đối phó với tình trạng hỗn loạn, vốn đã nhấn chìm phong trào xã hội chủ nghĩa sau khi Thế chiến thứ nhất bùng nổ. Nhiều tổ chức xã hội chủ nghĩa trước đây tự xưng là cách mạng, tuyên bố sự liên kết với nhóm Quốc tế thứ hai theo chủ nghĩa Marx, thì nay chịu khuất phục trước sự cuồng loạn của chủ nghĩa dân tộc đang lan rộng khắp châu Âu vào thời điểm đó.

Sự thoái lui dần trước trật tự tư bản đã dẫn đến sự ủng hộ công khai cho các nhà nước quốc gia và giai cấp tư sản của họ vào năm 1914. Ở những nơi họ giữ ghế trong Quốc hội, chẳng hạn như ở Đức, các nghị sĩ xã hội chủ nghĩa đã bỏ phiếu ủng hộ việc đổ máu và tàn sát công nhân hàng loạt. Sự từ bỏ các nguyên tắc này của những người tự xưng là xã hội chủ nghĩa đã làm kinh hoàng Lênin cũng như những người theo chủ nghĩa Mác chân chính khác.

Nhà nước và Cách mạng thể hiện nỗ lực của ông nhằm khẳng định lại thái độ của chủ nghĩa Mác đối với nhà nước nhằm chỉ ra lý do tại sao nhà nước tư bản cần phải bị tiêu diệt, chứ không phải thuần hóa, để quyền lực của người lao động được thay thế. Việc trình bày lại như vậy rất quan trọng không chỉ đơn giản là làm mất uy tín của những điều mà những người theo chủ nghĩa xã hội của Quốc tế thứ hai trình bày, mà còn là kim chỉ nam hành động cho hàng triệu công nhân trên khắp châu Âu, những người đấu tranh chống lại chiến tranh và đi cùng đó là tình trạng thiếu thốn, bần cùng, thứ bắt đầu làm rung chuyển nền tảng của chủ nghĩa tư bản châu Âu.

Như Lênin đã viết trong lời tựa của lần xuất bản đầu tiên: “Những nỗi kinh hoàng và khổ đau chưa từng có của cuộc chiến tranh kéo dài đang làm cho nhân dân không thể chịu nổi và giận dữ thêm sôi trào. Cách mạng vô sản thế giới rõ ràng đang trưởng thành. Vấn đề về mối quan hệ của nó với nhà nước đang có được tầm quan trọng thực tế.”

Điểm khởi đầu cho lập luận của ông là bản chất giai cấp của nhà nước tư bản chủ nghĩa. Dựa trên các tác phẩm của Mác và Ăng-ghen, Lênin đã đánh đổ tư tưởng cho rằng nhà nước là một cơ quan trung lập đứng trên các giai cấp xã hội. Thay vào đó, ông lập luận rằng nhà nước tồn tại như một phương tiện để một giai cấp duy trì sự thống trị của mình đối với giai cấp khác. Không dễ gì để luật hóa mâu thuẫn giữa công nhân và ông chủ dưới chủ nghĩa tư bản, “nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những đối kháng giai cấp không thể điều hòa được. Nhà nước ra đời ở đâu, khi nào và trong chừng mực mà những đối kháng giai cấp không thể điều hòa được một cách khách quan. Và ngược lại, sự tồn tại của nhà nước chứng tỏ mâu thuẫn giai cấp là không thể điều hòa được… Nhà nước là cơ quan thống trị giai cấp, cơ quan áp bức giai cấp này đối với giai cấp khác; là tạo ra ‘trật tự’, hợp pháp hóa và duy trì sự áp bức này bằng cách làm dịu xung đột giữa các giai cấp.” Hệ thống phán xử, với tòa án và nhà tù, trong chừng mực mà chúng hợp pháp hóa lao động làm công ăn lương và bảo vệ quyền sở hữu tài sản của người giàu, đều là những ví dụ cho điều này ngày nay.

Cưỡng chế cũng là trung tâm quyền lực của nhà nước tư bản. Như Lênin đã nói: “Quyền lực này [của nhà nước] chủ yếu bao gồm những gì? Nó bao gồm các cơ quan đặc biệt gồm những người có vũ trang có nhà tù, v.v. dưới sự chỉ huy của họ… Quân đội thường trực và cảnh sát là những công cụ chính của quyền lực nhà nước.”

Do nhà nước tư bản tồn tại để thực thi lợi ích và quyền tài sản của giai cấp tư bản, nó không thể bị các đại diện của giai cấp công nhân tiếp quản và sử dụng để giới thiệu chủ nghĩa xã hội như các nhà cải cách của Quốc tế thứ hai đã lập luận cho tới cùng. Thay vào đó, nó phải bị phá hủy và dỡ bỏ để vô hiệu hóa quyền lực của giai cấp tư bản, và ngăn chặn các nhà tư bản tái khẳng định sự thống trị của họ sau một cuộc cách mạng công nhân thành công.

Để điều này xảy ra, người lao động phải trở thành tầng lớp thống trị trong xã hội. Như Lênin đã mô tả: “Việc lật đổ giai cấp tư sản chỉ có thể đạt được khi giai cấp vô sản trở thành giai cấp thống trị, có khả năng đập tan sự kháng cự tất yếu và tuyệt vọng của giai cấp tư sản, và có khả năng tổ chức tất cả những người lao động và những người bị bóc lột vào hệ thống kinh tế mới.”

“Giai cấp vô sản cần có chính quyền nhà nước, một tổ chức lực lượng tập trung, một tổ chức bạo lực, để vừa đè bẹp sự phản kháng của bọn bóc lột, vừa để lãnh đạo đại bộ phận nhân dân – nông dân, tiểu tư sản, bán vô sản – trong công việc tổ chức một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa.” Vì vậy, việc xóa bỏ nhà nước tư bản đơn giản là không đủ, nó phải được thay thế bằng các tổ chức thể hiện và bảo vệ sự kiểm soát xã hội của người lao động.

Nhưng một quốc gia như vậy sẽ có rất ít điểm chung với tất cả các quốc gia tồn tại trước đây, vốn tôn trọng quyền cai trị của thiểu số. Công xã Paris năm 1871 đã cung cấp ví dụ đầu tiên về chính quyền của người lao động cuối cùng sẽ như thế nào. Là một người quan sát sâu sắc về Công xã, Marx đã mô tả như sau: “Sắc lệnh đầu tiên của Công xã… là bãi bỏ quân đội thường trực và thay thế dân quân vũ trang… Công xã được thành lập từ các ủy viên hội đồng thành phố, được lựa chọn bằng phổ thông đầu phiếu ở các phường khác nhau của Paris, chịu trách nhiệm và có thể hủy bỏ bất cứ lúc nào. Phần lớn các thành viên của nó vốn là những người đàn ông lao động, hoặc những đại diện được thừa nhận của giai cấp công nhân… Cảnh sát, cho đến lúc đó vẫn là công cụ của chính phủ, ngay lập tức bị tước bỏ các thuộc tính chính trị của nó và trở thành công cụ có trách nhiệm và luôn luôn có thể bị thu hồi của Công xã… Từ các thành viên của Công xã trở xuống, nhân viên công vụ tiền lương chỉ bằng tiền lương của công nhân. Các đặc quyền và phụ cấp đại diện của các chức sắc cao cấp của nhà nước đã biến mất cùng với chính các chức sắc đó..”

Không thể phóng đại tầm quan trọng của Công xã và sự tương phản của nó với nhà nước tư bản đối với Lênin: “Công xã [đã] ‘mới chỉ’ thay thế bộ máy nhà nước đã bị nghiền nát bằng nền dân chủ đầy đủ hơn: bãi bỏ quân đội thường trực; tất cả các quan chức được bầu và có thể bị bãi miễn. Nhưng trên thực tế, từ ‘mới chỉ’ này có nghĩa là một sự thay thế khổng lồ của các tổ chức nhất định bằng các tổ chức khác thuộc loại khác về cơ bản.

Lênin cũng lập luận rằng nhà nước của công nhân khác với các hình thức trước đó ở bản chất tạm thời của nó. Các xã hội trong đó giai cấp thống trị dựa vào sự bóc lột và áp bức đa số mỗi ngày đòi hỏi một cấu trúc nhà nước lâu dài để đảm bảo sự ổn định và tuân thủ xã hội.

Khi đã nắm quyền kiểm soát, giai cấp công nhân không phải áp bức bất kỳ tầng lớp xã hội nào khác để điều hành xã hội một cách hiệu quả và đáp ứng nhu cầu của mọi người. Không có sự phân chia giai cấp thì không cần có nhà nước. Do đó, về lâu dài, một xã hội xã hội chủ nghĩa chân chính sẽ là một xã hội không cần đến một cấu trúc nhà nước áp bức.

Khi đó, chức năng chính của nhà nước công nhân là đảm bảo đánh bại giai cấp tư bản và ngăn không cho giai cấp này tập hợp lại hoặc tái vũ trang để tiêu diệt cách mạng và quyền lực của công nhân.

Như Lênin đã giải thích: “Tuy nhiên, cơ quan đàn áp ở đây là đa số dân chúng, chứ không phải thiểu số, như mọi khi dưới chế độ nô lệ, chế độ nông nô và chế độ nô lệ làm công ăn lương. Và vì đại đa số người dân tự mình đàn áp những kẻ áp bức mình, nên một ‘lực lượng đặc biệt’ đàn áp không còn cần thiết nữa! Theo nghĩa này, nhà nước bắt đầu lụi tàn.”

Đối với các tổ chức của Quốc tế thứ hai, những tổ chức đã tự hòa nhập vào nhà nước tư bản chủ nghĩa và các cấu trúc cai trị theo cách không khiến họ hướng tới việc tiêu diệt nó, các lập luận của Lenin có phần không được hoan nghênh. Nhà nước và Cách mạng bị chỉ trích là Blanquist và vô chính phủ trong dòng chính của phong trào xã hội chủ nghĩa.

Ngược lại, trong số các nhà phê bình cánh tả của phong trào xã hội chủ nghĩa chính thống thời bấy giờ, bao gồm cả một số người theo chủ nghĩa vô chính phủ, Nhà nước và Cách mạng là một sự mặc khải. Người theo nghiệp đoàn chủ nghĩa Alfred Rosmer nhớ lại lúc tiếp nhận nó ở Pháp: “đối với những nhà cách mạng nằm ngoài xu hướng chủ đạo của chủ nghĩa Mác chính thống, đối với những người theo chủ nghĩa nghiệp đoàn và những người theo chủ nghĩa vô chính phủ, đây … là một tiết lộ thú vị. Họ chưa bao giờ nghe ngôn ngữ như vậy từ những người theo chủ nghĩa Mác mà họ biết. Họ đọc đi đọc lại cách giải thích này của Marx, điều hoàn toàn xa lạ với họ.”

Do đó, việc những người theo chủ nghĩa vô chính phủ ngày nay coi Lênin là một nhà độc tài là một đặc điểm quá phổ biến vừa mỉa mai vừa không chính xác một cách đáng tiếc. Nhiều lần trong suốt cuộc đời chính trị của mình, bao gồm cả trong Nhà nước và Cách mạng, Lênin đã nhấn mạnh hoạt động có ý thức của người lao động là rất quan trọng đối với cuộc đấu tranh để tạo ra một thế giới mới và tốt đẹp hơn. Năm 1906, ông viết về sự háo hức muốn thấy giai cấp công nhân “đập tan mọi công cụ áp bức nhân dân, giành lấy chính quyền và lấy đi những gì được coi là thuộc về mọi loại kẻ cướp của nhân dân – tóm lại, khi trí tuệ và lý trí của hàng triệu người bị áp bức thức dậy không chỉ để đọc sách, mà còn để hành động, hành động của con người cho sự sống còn, để làm nên lịch sử.”

Cuộc cách mạng mà Lênin đã trải qua và lãnh đạo ngay sau khi hoàn thành Nhà nước và Cách mạng  là một minh chứng cho điều này. John Reed, một nhà báo người Mỹ đã ở Nga trong cuộc cách mạng đã mô tả “lần đầu tiên, hàng triệu công nhân và nông dân bình thường thấy mình có thể tham gia vào các quyết định quan trọng ảnh hưởng đến cuộc sống của họ. Công nhân nắm quyền kiểm soát các nhà máy, nông dân nghèo chiếm đoạt đất đai, mầm mống của một hình thức xã hội hoàn toàn mới được tạo ra.”

Cơ cấu chính thức của quyền lực công nhân phản ánh điều này: “Ít nhất hai lần một năm các đại biểu được bầu từ khắp nước Nga vào Đại hội Xô viết toàn Nga… Cơ quan này, bao gồm khoảng hai nghìn đại biểu, họp tại thủ đô dưới hình thức của một Đại Xô viết, và giải quyết các vấn đề cơ bản của chính sách quốc gia.” Mà theo Reed là, “chưa từng có cơ quan chính trị nào nhạy cảm và đáp ứng được ý nguyện của quần chúng hơn thế.”

Sự tương phản giữa nền dân chủ có sự tham gia của hình thức quyền lực tiên tiến nhất của người lao động chưa từng thấy và bản chất áp bức của nhà nước tư bản là không thể lớn hơn. Nó chế giễu những người từ chối quyền lực nhà nước là độc đoán bất kể giai cấp nào đang kiểm soát.

Hơn một trăm năm sau khi nó được viết, Nhà nước và Cách mạng vẫn là sự giải thích rõ ràng nhất về vai trò của nhà nước và sự cần thiết của quần chúng để tiêu diệt nó để mang lại một xã hội không có sự phân chia giai cấp dưới bất kỳ hình thức nào.


Louise O’Shea, Cờ đỏ, Thứ ba, ngày 19 tháng 4 năm 2022

Nhà nước và cách mạng – Lenin

Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận