Hình mẫu Trùng Khánh một thập kỷ đã qua

Trong khoảng thời gian từ năm 2007 đến 2012, những người dõi theo Trung Quốc trên khắp thế giới và một bộ phận đáng kể cánh tả quốc tế đã dành sự quan tâm lớn đến Trùng Khánh, một thành phố nằm ở phía tây nam của đất nước này. Dưới sự lãnh đạo của bí thư thành ủy Bạc Hy Lai, chính quyền thành phố Trùng Khánh đã bận rộn với một loạt các hoạt động chính trị đặc biệt, thứ thường được biết đến với cái tên ‘Hình mẫu Trùng Khánh’ (重庆 模式). Nó thúc đẩy một thông điệp ý thức hệ mạnh mẽ tập trung vào ‘thịnh vượng chung, sự chia sẻ’ (共同 富裕) và chủ nghĩa quân bình về kinh tế, đồng thời tạo ra các chính sách được cho là nhằm tới sự tái phân phối. Nó phát động chiến dịch nổi tiếng ‘Striking Black’ (打黑) để truy tố các đối thủ chính trị của Bạc và giới thượng lưu giàu có bảo thủ trong thành phố dưới danh nghĩa trấn áp các băng đảng ‘xã hội đen’. Các cuộc họp công cộng lớn thường xuyên được tổ chức hoặc được khuyến khích để mọi người tự tổ chức, nơi hàng nghìn người tụ tập với nhau để hát những bài hát ‘đỏ’ kinh điển thời Mao. Nó cũng thể hiện sự không khoan dung cực độ đối với những người chỉ trích nhà nước, một số đã bị gửi tới các trại lao động tập trung.

Nhìn chung các nhà bình luận theo chủ nghĩa tự do coi Hình mẫu Trùng Khánh như là một mở rộng đáng sợ của sự lạm dụng cưỡng chế bởi nhà nước chuyên chế. Ngược lại, nhiều người cánh tả hoan nghênh Hình mẫu này như là một đối sách tối cần thiết trước sự chuyển hướng sang tư bản của Trung Quốc trong thời kỳ cải cách và là sự khởi đầu cho một phương thức phát triển công bằng và bình đẳng hơn. Trong khi cuộc tranh luận về cách để hiểu hình mẫu Trùng Khánh ngày một thêm chia rẽ, thì vào năm 2012, chính hình mẫu này đã bất ngờ sụp đổ trong một loạt bê bối chính trị đầy giật gân. Vương Lập Quân, một cộng sự thân cận của Bạc, đã đào tẩu tới Lãnh sự quán Hoa Kỳ vào tháng 2 năm đó. Điều này dẫn đến việc tiết lộ cho dư luận về vụ giết hại một doanh nhân người Anh bởi vợ của Bạc. Sau đó Bạc đã bị cách chức vào tháng 3 năm 2012 và cuối cùng bị kết án tù chung thân vì tội tham nhũng.

Mặc dù trong suốt thời gian từ khi nó ra mắt cho đến trước khi kết thúc một cách đầy kịch tính, Hình mẫu Trùng Khánh đã thu hút được sự chú ý đáng kể, nhưng kể từ năm 2012 đã thiếu vắng đi những phản hồi và xem xét lại hình mẫu một cách nghiêm túc. Hình mẫu này là gì? Chúng ta có nên xem những tường thuật của giới tự do và cánh tả là có giá trị không? Hình mẫu này nói lên điều gì về bức tranh rộng lớn hơn về chính trị Trung Quốc đương đại? Có mối liên hệ nào giữa Hình mẫu Trùng Khánh và những chuyển biến chính trị ở Trung Quốc sau năm 2012 dưới thời Chủ tịch Tập Cận Bình không? Những câu hỏi này hiếm khi được đặt ra bởi các nhà quan sát Trung Quốc, điều này phản ánh sự đánh giá thấp bản chất và nội dung chính trị của Hình mẫu Trùng Khánh.

Một dự án nghiên cứu mà tôi đã thực hiện trong vài năm qua cho phép tôi hình thành một số đáp án sơ bộ ​​cho những câu hỏi này. Mặc dù vấn đề nghiên cứu ban đầu không liên quan gì đến hình mẫu Trùng Khánh, nhưng cuối cùng dự án đã mang tới một cánh cửa quan trọng giúp chúng ta có thể xem xét và so sánh hình mẫu một cách chi tiết. Trong phần này, tôi dựa trên các kết quả nghiên cứu của mình để thảo luận về cách mà chúng ta có thể suy nghĩ lại về bản chất chính trị của hình mẫu Trùng Khánh và những dư âm của nó đối với những biến chuyển chính trị ở Trung Quốc sau năm 2012.

Những hình thức thu thuế tương phản

Năm 2016, tôi bắt đầu nghiên cứu chính trị Trung Quốc liên quan tới việc đánh thuế quyền sở hữu nhà ở tư nhân. Khi thuế đánh vào sở hữu nhà ở tư nhân vẫn còn chưa được áp dụng trên toàn quốc, Trùng Khánh và Thượng Hải đã khởi động một thử nghiệm về chính sách thuế này bắt đầu từ ngày 28 tháng 1 năm 2011. Tuyên truyền chính thức và các chuyên gia truyền thông có xu hướng mô tả các thí nghiệm ở hai thành phố là một phần giống nhau gói chính sách. Tuy nhiên, sau khi phân tích các tài liệu chính sách và xem xét cách thức thu thuế trên thực tế, tôi đã phát hiện ra những khác biệt nổi bật trong cách hai chính quyền địa phương định khung, thiết kế và ban hành thuế của họ.

Đầu tiên, các quan chức Trùng Khánh đã định khung rõ ràng thuế của họ đánh vào quyền sở hữu tư nhân như là một biện pháp chống phân lại sự phân cực giàu có. Vào tháng 4 năm 2010, Huang Qifan, thị trưởng thành phố Trùng Khánh, đã có mặt trong một cuộc phỏng vấn để xác định cơ sở lý luận và tầm nhìn đằng sau thuế. Phát biểu thay mặt chính phủ, ông tuyên bố rằng ‘chúng tôi sẽ không tạo ra gánh nặng thuế cho người nghèo … giảm thuế cho tầng lớp trung lưu … và đánh thuế khắc nghiệt vào người giàu’ (Huang 2010). Thông điệp này đã được lặp lại trên nhiều phương tiện truyền thông chính thức, gắn chính sách thuế vào một dự án tổng thể nhằm đạt được sự thịnh vượng chung và bình đẳng trong phân phối của cải.

Ngược lại, các quan chức Thượng Hải coi thuế của họ như một biện pháp kỹ thuật khẩn cấp để giải quyết vấn đề nóng lên của thị trường nhà ở. Chính quyền thành phố lý giải thuế như là một cách để điều chỉnh cung cầu và hạn chế sự đầu cơ nhà ở, đồng thời luôn thảo luận về thuế song hành với các biện pháp can thiệp kỹ thuật khác trên thị trường nhà ở, chẳng hạn như giới hạn mua và tài sản thế chấp. Để củng cố thông điệp này, chính quyền thành phố đã sắp xếp Cục Quản lý và An ninh Nhà ở Thành phố thay vì các cục tài chính và cục thuế, thường là người giám sát chính sách thuế, để chịu trách nhiệm việc thiết kế thuế này.

Sự khác biệt rõ rệt cũng xuất hiện trong cách chính quyền hai thành phố định nghĩa người nộp thuế của họ. Trong khi Trùng Khánh áp thuế đối với tất cả các bất động sản xa xỉ thuộc sở hữu tư nhân hiện có, Thượng Hải đã phát minh ra một thiết kế ‘hạn chót’, hướng tới tương lai: chỉ khi một chủ nhà ở Thượng Hải mua bất động sản thứ hai sau ngày thuế được ban hành thì họ mới phải nộp thuế và thuế đánh vào tài sản thứ hai. Hiệu quả, thuế của Trùng Khánh nhắm vào những người giàu nhất trong thành phố. Một quan chức tại một trong những cục thuế địa phương của Trùng Khánh đã nói nửa đùa nửa thật với tôi trong một cuộc phỏng vấn vào năm 2017: ‘Ở Trùng Khánh, bạn có giàu hay không được quyết định bởi bạn có phải đóng khoản thuế này hay không.’ Ngược lại, thuế của Thượng Hải không hướng tới những người giàu nhất mà thay vào đó tập trung vào những hộ gia đình không giàu quá nhưng vẫn đủ giàu để mua bất động sản thứ hai sau khi chính sách thuế được ban hành: Tầng lớp khá giả vừa vừa trong các hộ gia đình trung lưu.

Việc ban hành các loại thuế trong thực tế thậm chí còn cho thấy nhiều điểm khác biệt đáng kể. Ban lãnh đạo thành phố Trùng Khánh đã chỉ đạo các cục thuế địa phương giành nhiều nguồn lực và nhân lực để thu thuế mới, điều này đã cản trở nghiêm trọng việc thu các loại thuế khác. Thật vậy, ba nhà nghiên cứu chính sách mà tôi đã phỏng vấn riêng vào năm 2017 đã ước tính rằng số tiền thực sự thu được từ thuế, vốn không đáng kể, sẽ không vượt quá số nguồn lực dành cho việc thu thuế. Từ quan điểm của phân tích chi phí-lợi ích, việc dành quá nhiều nguồn lực để thu một loại thuế là vô nghĩa. Tuy nhiên, các quan chức thuế địa phương của Trùng Khánh nói với tôi rằng vấn đề thực sự không phải là thu được bao nhiêu tiền, mà là làm cho quá trình truy thu được hiển thị công khai nhất có thể, để đảm bảo rằng công dân bình thường cũng có thể thấy rằng ‘chính phủ đứng về phía họ’.

Nhất quán với logic này, nhà nước đã sử dụng các phương pháp đối đầu và công khai để thu thuế, chẳng hạn như cho các phương tiện chính thức chạy quanh các khu dân cư giàu có để xử lý tại chỗ các khoản thanh toán và cử đội chặn người không nộp thuế tại sân bay. Theo một nhà nghiên cứu tại Học viện Khoa học Xã hội Trung Quốc mà tôi đã phỏng vấn vào năm 2017, các quan chức thuế sẽ trưng ra các biểu ngữ lớn và dễ nhìn, chẳng hạn như ‘Người nộp thuế, chào mừng trở lại!’ khi chặn mọi người ở sân bay. Trong quá trình hoạt động như vậy, cán bộ thuế chủ động tiếp xúc với những người ngoài cuộc, thậm chí mời cả những người bình thường cùng tham gia. Vào tháng 11 năm 2011, nhà nước đã thực hiện một động thái rất bất thường trong số các hoạt động thu thuế của Trung Quốc vào thời điểm đó: công khai thông tin của 13 chủ sở hữu bất động sản đã không nộp thuế đúng hạn. Bằng cách công bố thông tin này cho công chúng, nhà nước đã kêu gọi một cách hiệu quả quần chúng tham gia vào việc làm xấu hổ và theo dõi những người này, những người được miêu tả như kẻ thù. Nói cách khác, chính quyền thành phố Trùng Khánh coi việc thu thuế này như một điểm tập hợp quan trọng để vận động quần chúng.

Ngược lại, chính quyền Thượng Hải đã hết sức cẩn trọng để khiến những người đóng thuế tiềm năng coi thuế chỉ như là một sự hạn chế kinh tế, để đáp ứng điều này các quyết định, chiến lược được đưa ra có tính toán, theo một cách cá nhân và riêng tư. Thiết kế ‘hạn chót’ đã có một hiệu ứng cá nhân rõ ràng. Đối với những hộ gia đình khá giả đang có ý định mua bất động sản thứ hai, phản ứng của họ khi nghe về thuế sẽ là cân nhắc lại kế hoạch mua của mình và đưa ra quyết định hợp lý nhất về mặt kinh tế với thông số mới này. Khung kỹ thuật của thuế cũng làm cho những hộ gia đình khá giả vừa phải cân nhắc việc mua bất động sản thứ hai, nghĩ rằng họ thực sự có thể hưởng lợi từ thuế vì nó được cho là sẽ giúp khắc phục sự bùng nổ về nhà ở và làm cho bất động sản rẻ hơn.

Sự khác biệt giữa phương thức đánh thuế quyền sở hữu tư nhân của Trùng Khánh và Thượng Hải là rất có hệ thống. Chính quyền thành phố Trùng Khánh đã đưa thuế của mình vào một thông điệp tư tưởng về chủ nghĩa quân bình kinh tế và sử dụng thuế như một phương tiện để vận động quần chúng và xây dựng sự ủng hộ của quần chúng đối với nhà nước. Mặt khác, chính quyền thành phố Thượng Hải đã làm mọi cách để đóng khung thuế của mình như một vấn đề kinh tế và kỹ thuật, thay vì chính trị, và để đảm bảo rằng những người nộp thuế tiềm năng phản ứng với thuế theo cách kinh tế và cá nhân, thay vì chính trị. Do đó, bên dưới các phương thức đánh thuế tương phản là hai logic chính trị khác nhau, điều có ý nghĩa quan trọng trong việc hiểu Hình mẫu Trùng Khánh.

Xem xét lại hình mẫu Trùng Khánh

Các cuộc thử nghiệm thuế năm 2011 ở Trùng Khánh và Thượng Hải không được xây dựng bởi chính quyền trung ương. Cuối năm 2009, chính quyền thành phố Trùng Khánh đã đề xuất với chính quyền trung ương mà không chờ phản hồi, rằng họ muốn thử nghiệm việc đánh thuế quyền sở hữu tư nhân. Theo một người cấp tin mà tôi đã phỏng vấn, các quan chức Trùng Khánh đã liên hệ với các bộ trung ương, thông báo rõ ràng sự thật rằng Bạc đứng sau sáng kiến ​​này. Điều này cho thấy rằng ban lãnh đạo thành phố Trùng Khánh đã hình dung thuế này như là một phần của Hình mẫu Trùng Khánh đang phát triển. Vì vậy, điều cốt yếu là phải đặt câu hỏi: một cách rõ ràng hơn, thuế cho chúng ta biết điều gì về bản chất chính trị của Hình mẫu Trùng Khánh?

Tính nghiêm túc trong việc thực hiện cuộc thử nghiệm thuế khiến cho tôi hoài nghi những câu chuyện của cả tự do và cánh tả. Nếu chúng ta theo các nhà bình luận tự do khi hiểu Hình mẫu Trùng Khánh như là một sự mở rộng quyền lực của nhà nước chuyên chế và độc tài, thì bản thân việc thử nghiệm thuế – đừng bận tâm đến cách nó được áp dụng – chẳng chút nào như vậy. Hơn nữa, sự nhấn mạnh của phe tự do vào bộ mặt chuyên chế và độc đoán của hình mẫu không thể giải thích được cách mà nó xoay sở để củng cố một mức độ đáng kể sự ủng hộ từ người dân Trùng Khánh. Trên thực tế, nhiều hãng truyền thông quốc tế, bao gồm The Washington Post, BBC và Reuters, đã dẫn những tin tức đã được xác thực rằng sự nổi tiếng của Bạc trong quần chúng vẫn rất mạnh mẽ ngay cả sau khi ông bị cách chức vào năm 2012 và bị kết án tù chung thân về tội tham nhũng (Richburg 2012; Grammaticas 2013; Wen 2017).

Ở mặt khác, phần tường thuật của cánh tả mô tả Hình mẫu Trùng Khánh như một nỗ lực đáng kể để giải quyết sự gia tăng bất bình đẳng về kinh tế thông qua sự tái phân phối và khai phá một con đường phát triển vì người nghèo, vì cơ sở rộng lớn. Tuy nhiên, nếu những gì xảy ra đối với thuế đánh vào sở hữu nhà tư nhân là bất kỳ sự gợi ý nào, thì mức độ tái phân phối kinh tế thực tế đạt được theo Hình mẫu Trùng Khánh là vô cùng đáng nghi, mặc cho diễn ngôn về chủ nghĩa bình quân đã đóng một vai trò nổi bật. Có vẻ như mối quan tâm hàng đầu đối với ban lãnh đạo thành phố Trùng Khánh không phải là có thể tạo ra bao nhiêu khác biệt về vật chất để giảm sự bất bình đẳng về kinh tế, mà là tác động chính trị và biểu tượng của các biện pháp giảm bất bình đẳng, vì người nghèo.

Do đó, tôi cho rằng chúng ta nên hiểu Hình mẫu Trùng Khánh trước hết là một dự án vận động chính trị quần chúng nhằm thu hút quần chúng tin vào một tầm nhìn tư tưởng thứ định hình chính quyền thành phố, và đặc biệt là một lãnh đạo nhà nước có sức lôi cuốn, kẻ tranh đấu cho nhân dân. Ý thức về bản sắc tập thể giữa người dân và nhà nước được phát triển khi quần chúng được huy động tham gia một cách tích cực vào các hoạt động chính trị khác nhau. Tất nhiên, những hoạt động này chủ yếu do nhà nước dàn dựng, nhưng trong một số giới hạn nhất định, vẫn còn một số chỗ trống cho các tổ chức tự phát.

Đằng sau sự nhấn mạnh về sự huy động và tham gia chính trị của quần chúng là sự hiểu biết tinh tế rằng cả sự cưỡng ép của nhà nước hay các chính sách dẫn đến cải thiện vật chất đều không đủ để xây dựng sự đồng nhất chính trị lâu dài giữa người dân và nhà nước; thay vào đó, sự xác định như vậy chỉ có thể được xây dựng khi chính quần chúng tham gia vào chính trị. Nói cách khác, thông qua huy động sự tham gia, Hình mẫu Trùng Khánh đã tìm cách định hình lại các công dân thành các chủ thể chính trị, người đồng nhất với nhà nước.

Do đó, các cuộc tập hợp công chúng để hát các bài hát ‘đỏ’ nên được hiểu là một hình thức huy động sự tham gia. Không thực sự quan trọng liệu những người được huy động tham gia vào các cuộc họp có tự nguyện hay không (nhiều người không). Miễn là họ được huy động tham gia, họ đã trở thành một phần của màn trình diễn chính trị trên quy mô lớn nhằm bày tỏ sự ủng hộ với nhà nước, và chính kinh nghiệm tham gia vào một cuộc trình diễn lớn đến vậy là công cụ để nuôi dưỡng ý thức về bản sắc chính trị và lòng trung thành (Wedeen 1999). Hơn nữa, chính quyền thành phố Trùng Khánh đã rất nỗ lực để kết hợp màn trình diễn chính trị với cuộc sống hàng ngày, khuyến khích người dân ‘hát những bài hát đỏ, đọc những tác phẩm đỏ kinh điển, kể về những câu chuyện cách mạng và nâng cao tinh thần, vừa viết những câu châm ngôn cổ vũ’ trong cuộc sống hàng ngày của họ (Zhao 2012). Theo một nghĩa nào đó, việc tham gia chính trị trở nên không thể phân biệt được với những thói quen hàng ngày, góp phần âm thầm và tinh tế vào việc xây dựng các chủ thể chính trị mới.

Tương tự, chiến dịch ‘Đánh xã hội đen’ đã sử dụng bạo lực nhà nước như một phương tiện để vận động quần chúng. Trong một thắng lợi ghi dấu ấn của chiến dịch, một tòa án ở Trùng Khánh đã kết án tử hình cựu cảnh sát trưởng của thành phố, người bị kết tội là ‘tấm ô che chở’ cho nhiều nhóm tội phạm. Ngay sau khi ông bị hành quyết, nhiều người đã giăng các biểu ngữ trên đường phố hoặc đốt pháo để ăn mừng. Không rõ người dân Trùng Khánh tự tổ chức những hành động như vậy hay được nhà nước hướng dẫn làm như vậy, nhưng rõ ràng chiến dịch ‘Đánh xã hội đen’ được lồng ghép rất nhiều với nỗ lực vận động quần chúng công khai thể hiện bản thân với nhà nước với tư cách như là người đấu tranh cho nhân dân nhằm chống lại giới tinh hoa ‘tham nhũng’. Đồng thời, chính quyền thành phố Trùng Khánh cũng khuyến khích công chúng báo cáo với nhà nước bất kỳ hoạt động tội phạm nào (Cabestan 2011; Huang 2011), nhấn mạnh rằng sự tham gia của xã hội là không thể thiếu đối với sự thành công của chiến dịch ‘Đánh xã hội đen’.

Hình mẫu Trùng Khánh thậm chí còn khuyến khích quần chúng tham gia một cách tập thể vào các hoạt động chính trị phi thể chế. Vào tháng 11 năm 2008, hàng ngàn tài xế taxi đã đình công để phản đối mức tiền phạt cao, thiếu cung cấp nhiên liệu và lịch trả lương thấp. Trong một động thái hết sức bất thường, Bạc bắt đầu phối hợp các cơ quan thành phố và các công ty taxi khác nhau để giải quyết các mối lo ngại của những người đình công ngay sau khi cuộc đình công bắt đầu. Hai ngày sau cuộc đình công, Bạc đã tổ chức một cuộc đối thoại bàn tròn trên truyền hình và công khai với những người đình công, trong đó ông thừa nhận rằng họ ‘có sự bất bình hợp lý’ và chính phủ ‘trước hết nên kiểm tra và phản hồi những gì chúng ta đã làm sai’. Điều này trái ngược hoàn toàn với cách tiếp cận thông thường của Chính phủ Trung Quốc trong xử lý phản đối và tranh chấp, Bạc công khai tán thành tính hợp pháp của hành động tập thể và ra hiệu rằng nhà nước sẽ sẵn sàng nghiêm túc xem xét những tình cảm thể hiện qua hành động đó. Cử chỉ này đã định nghĩa lại một cách hiệu quả hành động tập thể không còn là thứ thách thức hoặc chống đối nhà nước nữa, mà là một hình thức tham gia chính trị kết nối cơ sở với nhà nước.

Do đó, thông điệp ý thức hệ của Trùng Khánh về ‘cộng đồng, thịnh vượng chung’ và chủ nghĩa quân bình kinh tế nên được hiểu là một phần của dự án vận động quần chúng rộng lớn hơn này, chứ không phải theo nghĩa đơn thuần của nó. Việc đưa ra một tầm nhìn tư tưởng trong đó các khu vực thu nhập trung bình và thấp của Trùng Khánh coi nhà nước là người đấu tranh cho họ đã làm cho cuộc vận động quần chúng do nhà nước lãnh đạo trở nên hiệu quả hơn, vì sự tham gia chính trị trở nên hấp dẫn hơn. Logic tương tự cũng được áp dụng cho các chính sách tái phân phối về kinh tế, chẳng hạn như thuế đối với sở hữu tư nhân về nhà ở. Những chính sách này đã tạo cơ hội cho nhà nước thể hiện mình là người đấu tranh cho nhân dân và khuyến khích sự tham gia chính trị của quần chúng hơn nữa; liệu họ có thực sự phân phối lại của cải hay không không phải là điều đáng quan tâm.

Tóm lại, việc huy động quần chúng tham gia chính trị là trọng tâm của Hình mẫu Trùng Khánh – một dự án nhằm gây dựng sự ủng hộ lâu dài của quần chúng đối với chính quyền thành phố và lãnh đạo của nó, Bạc Hy Lai. Một loạt các kỹ thuật huy động cụ thể (tất nhiên, nhiều kỹ thuật gợi nhớ đến những kỹ thuật được sử dụng rộng rãi trong thời Mao), một thông điệp ý thức hệ, các chính sách tái phân phối và thực thi bạo lực nhà nước đều là những yếu tố cấu thành của dự án này. Hình mẫu này tạo nên sự tương phản rõ rệt với phong cách quản lý của Thượng Hải, thể hiện qua việc xử lý thuế đối với quyền sở hữu tư nhân: nhà nước làm mọi cách để làm cho các chính sách của mình có vẻ phi chính trị và kỹ trị, đồng thời khuyến khích công dân bình thường suy nghĩ và hành động theo những cách phi chính trị.

Quang cảnh của cuộc đấu giữa giới chính trị cấp cao

Nhiều nhà bình luận đã mô tả Hình mẫu Trùng Khánh là nỗ lực của Bạc Hy Lai nhằm củng cố vị trí của mình trong cuộc cạnh tranh chính trị cho chức vụ chính trị cao nhất ở Trung Quốc – cụ thể hơn là tư cách thành viên của Ủy ban Thường vụ Bộ Chính trị của ĐCSTQ – trong cuộc luân chuyển lãnh đạo năm 2012 (ví dụ, Zhao 2012). Tuy nhiên, không rõ tại sao Bạc lại dùng đến cách vận động quần chúng. Xét cho cùng, sự cạnh tranh lãnh đạo ở Trung Quốc thời hậu Mao cũng không có mối quan hệ rõ ràng lắm với tình cảm của dân chúng. Do đó, thật khó hiểu tại sao Bạc lại phải khó nhọc để khởi động một dự án vận động quần chúng toàn lực nếu ông nghiêm túc về việc cạnh tranh trong nền chính trị ưu tú của Trung Quốc.

Nghiên cứu của tôi đã cung cấp một số manh mối cho câu đố này. Một quan chức đã nghỉ hưu từ Cục Thuế Nhà nước mà tôi phỏng vấn đã kể lại những gì đã xảy ra khi các quan chức Trùng Khánh liên hệ với các bộ ngành tài chính trung ương về đề xuất đánh thuế sở hữu tư nhân về nhà ở:

“Khi lãnh đạo cao nhất của Trùng Khánh liên hệ với chúng tôi và nói rằng họ đang có kế hoạch cho thử nghiệm thuế, các quan chức Bộ Tài chính đã rất vui mừng; chúng tôi cũng rất hạnh phúc. Chúng tôi muốn giúp cho Trùng Khánh biến điều này thành hiện thực… Nhưng đồng thời, chúng tôi thực sự lo ngại rằng, với thực tế là Bạc có quá nhiều kẻ thù trong ban lãnh đạo trung ương, ban lãnh đạo trung ương có thể không chấp thuận kế hoạch này. Người dân Trùng Khánh cho biết Bạc cũng lo lắng về điều này, và đây là lý do tại sao họ đã làm việc chăm chỉ trong hai năm trước đó để thu hút nhiều sự ủng hộ từ mọi ngóc ngách trong xã hội. Nếu lãnh đạo trung ương không chấp thuận, Bạc sẵn sàng sử dụng sự ủng hộ này để gây sức ép với họ. Họ nói rằng trong trường hợp giả định xấu nhất, nếu lãnh đạo trung ương không muốn thông qua, họ có thể công bố kế hoạch cho công chúng và chứng minh nó sẽ phổ biến như thế nào, để lãnh đạo trung ương không còn lựa chọn nào khác ngoài việc phê duyệt.”

Và về cơ bản đây là những gì đã xảy ra: Chính quyền Trùng Khánh đã công bố công khai sáng kiến ​​này và tập hợp sự ủng hộ của quần chúng xung quanh nó rất lâu trước khi nhận được sự chấp thuận của ban lãnh đạo trung ương.

Điều này cho thấy rằng, việc Bạc sử dụng đến công tác vận động quần chúng nên được hiểu là một phản ứng đối với vị thế bị gạt ra ngoài lề của ông trong giới chính trị cấp cao của Trung Quốc hoặc thực tế là ông ‘có quá nhiều kẻ thù.’ Trong chu kỳ luân chuyển lãnh đạo lớn vào năm 2007, Bạc, lúc đó là Bộ trưởng Bộ Thương mại, được bổ nhiệm giữ chức Bí thư Đảng tại Trùng Khánh thay vì được đề bạt lên một vị trí cao hơn trong chính quyền trung ương. Nhiều nguồn tin truyền thông, cũng như điện tín của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ do WikiLeaks thu được, cho thấy việc giao nhiệm vụ này là một động thái có chủ ý của một số lãnh đạo quốc gia hàng đầu, chẳng hạn như Thủ tướng Ôn Gia Bảo và Phó Thủ tướng Ngô Nghi, nhằm ngăn cản tham vọng chính trị của Bạc và khiến ông ta thất thế về mặt chính trị. Điều quan trọng ở đây không chỉ là bản thân sự phân công công tác, điều đã dẫn đến việc ông bị giáng chức, mà còn ở việc một số nhà lãnh đạo cao nhất của đất nước đã kịch liệt chống lại Bạc. Do đó, có thể coi những nỗ lực vận động quần chúng ở Trùng Khánh là một động thái phi thường dẫu tuyệt vọng của một chính trị gia bị gạt ra bên lề. Tập hợp sự ủng hộ ở cơ sở là một cách để Bạc chống lại và gây áp lực lên những lực lượng chống lại ông trong giới tinh hoa chính trị. Cưỡi lên cao trào quần chúng để phá vỡ những quy tắc trò chơi thông thường của giới tinh hoa chính trị, điều này biểu thị nỗ lực của Bạc nhằm tìm kiếm một con đường phía trước trong một cuộc cạnh tranh chính trị mà tỷ lệ cược chống lại anh ta.

Việc Bạc sử dụng chiến lược vận động quần chúng đã khiến các đối thủ khác lo lắng, kể cả những người đã chiếm giữ các vị trí có lợi hơn, như Du Chính Thanh chẳng hạn, người khi đó là Bí thư Đảng thành phố Thượng Hải. Năm 1997, Du được thăng cấp trực tiếp từ vị trí lãnh đạo cấp tỉnh ở Sơn Đông lên chức vụ bộ trưởng trong chính quyền trung ương – một sự thăng tiến rất bất thường. Bốn năm sau, ông được thăng chức trở thành Bí thư Đảng ở Hồ Bắc và được bổ nhiệm làm ủy viên Bộ Chính trị ĐCSTQ. Ở thời điểm đó, hiếm có bí thư tỉnh ủy nào ngay lần đầu tiên đã được đề cử vào Bộ Chính trị. Sau hai lần thăng chức đột ngột này, năm 2007, Du được bổ nhiệm làm Bí thư Thành ủy Thượng Hải. Đây được coi là một sự thăng tiến quan trọng khác, báo hiệu khả năng cao rằng ông sẽ được vào Ủy ban Thường vụ Bộ Chính trị trong kỳ luân chuyển tiếp theo.

Tuy nhiên, theo các quan chức trong các bộ ngành tài chính trung ương, những người có quan hệ với lãnh đạo Thượng Hải vào thời điểm đó, Du rất lưu tâm và cảm thấy có phần bị đe dọa bởi các động thái ở Trùng Khánh khi Hình mẫu Trùng Khánh được triển khai. Các bộ ngành tài chính trung ương đã khai thác một cách chiến lược sự lo lắng này để khuyến khích Thượng Hải khởi động thử nghiệm thuế của riêng mình song hành với Trùng Khánh. Do đó, cuộc thử nghiệm thuế ở đó biểu thị một động thái phản ứng của giới lãnh đạo Thượng Hải nhằm ‘đánh cắp sấm sét’* của Trùng Khánh. (*lấy ý tưởng của người khác, sử dụng nó cho lợi ích của chính mình hoặc để đánh bại bên kia.)

Đối với Thượng Hải, một quan điểm mang tính phản ứng đã đặt ra những hạn chế. Vì Trùng Khánh đã hoàn thành công việc thiết kế ở hầu hết các chi tiết cụ thể vào thời điểm kế hoạch được đề xuất lên chính quyền trung ương, Thượng Hải đã phải chịu áp lực rất lớn trong việc thiết kế một loại thuế càng nhanh càng tốt và tung ra cùng lúc với Trùng Khánh. Vì vậy, các nhà hoạch định chính sách của Thượng Hải trước hết quan tâm đến việc tìm ra cách thức thuận tiện nhất về mặt chính trị để ban hành thuế và ngăn chặn sự bất mãn chính trị càng nhiều càng tốt. Do đó, Thượng Hải đã áp dụng một cách tiếp cận phi chính trị đối với thuế, logic của nó phù hợp với cách thức thông thường mà Chính phủ Trung Quốc giải quyết một loạt các vấn đề chính sách hóc búa trong thời kỳ cải cách, bao gồm cả cải cách tư nhân hóa nhà ở mà chính Du đã giám sát trong tư cách là Bộ trưởng nhà ở và xây dựng cuối những năm 1990.

Nói rộng hơn, Hình mẫu Trùng Khánh không chỉ đe dọa các đối thủ cạnh tranh riêng lẻ trong nền chính trị ưu tú của Trung Quốc, mà còn cả giới chính trị tinh hoa của ĐCSTQ nói chung, bởi nó tìm cách mang sức mạnh quần chúng đáng gờm ra chống chọi lại với cạnh tranh chính trị cấp cao. Một khi quần chúng được huy động để tham gia tích cực vào chính trị và nắm lấy một tầm nhìn chính trị cụ thể, không ai chắc điều này sẽ giải phóng bao nhiêu năng lượng, liệu năng lượng đó có vượt ra ngoài tầm kiểm soát và hình thành nên động lượng của chính nó hay không, hay năng lượng đó sẽ phá vỡ điều gì đó để thiết lập nên trật tự chính trị. Hình mẫu Trùng Khánh thực sự rất thành công trong việc vận động quần chúng và xây dựng sự ủng hộ của quần chúng đối với Bạc Hy Lai, và chính thành công này đã tạo nên một cuộc khủng hoảng đối với giới chính trị cấp cao của Trung Quốc. Sự căng thẳng tới tận cơ sở này nhấn mạnh những sự kiện kịch tính và bất ngờ trong năm 2012 đánh dấu sự sụp đổ của Hình mẫu Trùng Khánh. Thật vậy, ngay cả sau khi Bạc sụp đổ, năng lượng phổ biến được vun đắp qua nhiều năm vận động quần chúng đã thể hiện một mức độ phục hồi và không thể dễ dàng bị dập tắt – vì một số người ở Trùng Khánh thậm chí còn đưa ra ý tưởng ‘cứu’ Bạc bằng cách dàn dựng các hành động tập thể lớn. Tình hình hậu khủng hoảng này bùng phát mạnh khi Tập Cận Bình nắm quyền lãnh đạo ĐCSTQ vào năm 2012.

Di sản của Trùng Khánh trong ‘Kỷ nguyên mới’ của Tập Cận Bình

Mặc dù chính thức sụp đổ vào năm 2012, hình mẫu Trùng Khánh có vẻ như đã có một sự tái sinh đáng kể. Nhiều kỹ thuật vận động quần chúng của nó đã được ĐCSTQ dưới sự lãnh đạo của Tập Cận Bình đưa vào và nâng cao. Một mặt, Đảng – Nhà nước Trung Quốc tăng cường đàn áp, giám sát và thực hiện cưỡng chế chính trị nói chung. Mặt khác, nó đã chú ý và có kỹ năng vận động chính trị quần chúng hơn nhiều so với hơn hai thập kỷ trước, bằng chứng là nó đã huy động thanh niên và khơi nguồn tình cảm ủng hộ chế độ thông qua các phương tiện kỹ thuật số như thế nào. Tương tự như Hình mẫu Trùng Khánh, trật tự chính trị sau năm 2012 có mối quan hệ quyết định lẫn nhau giữa cưỡng chế và huy động: quần chúng được huy động để kỷ niệm cuộc đàn áp những tiếng nói bất đồng chính kiến ​​và một số tinh hoa tham nhũng,

Cũng tương tự như Hình mẫu Trùng Khánh, cuộc vận động quần chúng do nhà nước lãnh đạo ngày nay không phải là một dự án hoàn toàn từ trên xuống mà người dân tiếp nhận một cách thụ động những gì nhà nước áp đặt lên họ. Thay vào đó, sự thành công của cuộc vận động này xoay quanh việc người dân được định hình thành các chủ thể chính trị, những người tham gia một cách tự phát vào các hoạt động chính trị thể hiện bản sắc với nhà nước. Những đối tượng này, đôi khi được dán nhãn một cách chế giễu là ‘Tiểu hồng vệ binh’ (小 粉红), bắt nguồn từ cảm giác về quyền tự quyết và ý nghĩa cho việc tham gia chính trị như vậy. Hơn nữa, trong trật tự chính trị sau năm 2012, chúng ta cũng thấy rằng thông điệp ý thức hệ đóng một vai trò lớn hơn, nhấn mạnh hơn vào một nhà lãnh đạo có sức lôi cuốn cá nhân và sự đan xen chặt chẽ hơn giữa việc tham gia chính trị và cuộc sống hàng ngày – tất cả những điều này dường như đã được thực hiện trong vở kịch của Bạc ở Trùng Khánh. Mặc dù tôi chỉ có thể suy đoán, nhưng dường như đã có một quá trình học hỏi có chủ ý, trong đó các chiến lược huy động khác nhau mà Bạc đi tiên phong hoặc hồi sinh đã được sao chép và củng cố trong ‘Kỷ nguyên mới’ của ông Tập.

Đồng thời, những yếu tố gây đe dọa nhất đến lợi ích giới tinh hoa của Đảng từ Hình mẫu Trùng Khánh đã bị loại bỏ. Bất kỳ sự khoan nhượng nào đối với hành động tập thể có khả năng gây ra tranh cãi, ví dụ như điều Bạc đã thể hiện trong cuộc đình công của các tài xế taxi năm 2008, hiện đã không còn. Cũng không còn nữa là thông điệp ý thức hệ quyết liệt xung quanh chủ nghĩa quân bình kinh tế và tình cảm chống lại người giàu. Nếu có một hệ tư tưởng nào cùng đồng hành với dự án vận động quần chúng ngày nay, thì đó là một hệ tư tưởng ủng hộ nhà nước trong phạm vi sô vanh dân tộc chủ nghĩa.

Do đó, người ta có thể lập luận rằng mối quan hệ giữa Hình mẫu Trùng Khánh và trật tự chính trị sau năm 2012 dưới triều đại của ông Tập tương đương với cái mà Gramsci gọi là ‘cuộc cách mạng thụ động’: khi cơ sở chính trị đối mặt với một thách thức ghê gớm dựa trên sự huy động quần chúng ở cơ sở, những người đang cố gắng để bảo vệ cơ sở có xu hướng không dập tắt hoàn toàn lực lượng đầy thách thức này. Thay vào đó, họ tiếp thu một cách có chọn lọc và kết hợp một số yếu tố của cuộc trỗi dậy này để làm cho hiện trạng trở nên vững chãi hơn, đồng thời kiên quyết loại bỏ những đặc điểm có thể gây ra sự đe dọa lật đổ nhất.

Quan điểm này giúp chúng ta có thể hiểu những chuyển biến chính trị dưới thời Tập Cận Bình không phải là ngẫu nhiên được gây ra bởi một nhà lãnh đạo chính trị, mà là kết quả của lịch sử chính trị thời kỳ cải cách ở Trung Quốc. Điều quan trọng là phải nhận ra rằng trật tự chính trị của hai thập kỷ sau năm 1989 vừa có bộ mặt phi chính trị vừa có bộ mặt tư bản chủ nghĩa. Một mặt, ĐCSTQ có xu hướng tạo ra sự thờ ơ về chính trị rộng rãi bằng cách coi cả các hành động chính sách và công dân bình thường là phi chính trị, tương tự như cách Thượng Hải xử lý thuế đối với quyền sở hữu nhà ở tư nhân. Mặt khác, nó thúc đẩy một loạt các thay đổi cơ cấu trong nền kinh tế, tạo ra một phiên bản đặc biệt tàn bạo của chủ nghĩa tư bản. Cả hai khuôn mặt này đều nảy sinh ra mâu thuẫn sâu sắc. Xu hướng phi chính trị của ĐCSTQ đã tạo ra một khoảng trống trong đó mong muốn cơ bản của mọi người về sự tham gia chính trị có ý nghĩa vẫn chưa được thực hiện. Đồng thời, phiên bản của chủ nghĩa tư bản mà nó thiết lập đã tạo ra sự bất bình đẳng kinh tế ngày một nghiêm trọng.

Những mâu thuẫn này chính xác là thứ đã tạo ra cơ hội khai thác cho một cái gì đó giống như Hình mẫu Trùng Khánh và giúp nó thành công trong việc giành được rất nhiều sự ủng hộ từ cơ sở. Kết hợp công tác vận động quần chúng với tư tưởng bình đẳng, Hình mẫu Trùng Khánh nhanh chóng thu hút đủ năng lượng phổ biến đến mức dường như là đe dọa đến cơ sở chính trị của ĐCSTQ. Đối phó với cuộc khủng hoảng này, chế độ sau năm 2012 của ông Tập đã phải kết hợp có chọn lọc nhiều yếu tố của Hình mẫu Trùng Khánh vào phong cách quản lý của mình. Do đó, những chuyển biến chính trị dưới thời ông Tập, ít nhất một phần là hệ quả gián tiếp và không lường trước của trật tự phi chính trị, tư bản chủ nghĩa, đặc trưng của hai thập kỷ ‘cải cách’ đầu tiên sau năm 1989.

*Tham khảo:

  • Cabestan, Jean-Pierre. 2011, ‘Ý nghĩa của Hình mẫu Trùng Khánh đối với việc cải cách hệ thống luật pháp của Trung Quốc.’ Phân tích Trung Quốc: Một hay hai Hình mẫu Trung Quốc?, Tháng 11, 8–11. Paris & London: Trung tâm Châu Á & Hội đồng Châu Âu về Quan hệ Đối ngoại.
  • Ngữ pháp, Damian. 2013. ‘Sự ngưỡng mộ dành cho Bạc Hy Lai ở Trùng Khánh của Trung Quốc.’ BBC News, ngày 20 tháng 9. www.bbc.com/news/world-asia-china-24177264.
  • Hoàng, Philip CC 2011. ‘Trùng Khánh: Phát triển công bằng được thúc đẩy bởi “Bàn tay thứ ba”?’ Trung Quốc hiện đại 37 (6): 569–622.
  • Hoàng, Qifan 黄奇帆. 2010. ‘只要 政府 肯 动脑筋 可以 控制 房价: 专访 重庆 市长 黄奇帆 [Giá nhà ở có thể được kiểm soát miễn là Chính phủ sẵn sàng sử dụng bộ não của họ: Phỏng vấn Huang Qifan].’经济 参考 报[ Thông tin kinh tế hàng ngày ] , Ngày 20 tháng 4. news.szhk.com/2010/04/20/282745663755024.html.
  • Richburg, Keith B. 2012. ‘Ở Trùng Khánh, Di sản và Sự nổi tiếng của Bạc Hy Lai.’ The Washington Post , ngày 22 tháng 5. www.washingtonpost.com/world/asia_pacific/in-chongqing-bo-xilais-legacy-and-popularity-%20endure/2012/05/22/gIQATcVUhU_story.html.
  • Wedeen, Lisa. 1999. Tham vọng thống trị: Chính trị, Hùng biện và Biểu tượng ở Syria Đương đại . Chicago, IL: Nhà xuất bản Đại học Chicago.
  • Wen, Philip. 2017. ‘Ở Trùng Khánh, sự ủng hộ của Bạc Hy Lai phải chịu đựng khi đối mặt với cuộc tấn công mới của Bắc Kinh đối với di sản của ông ấy.’ Reuters , ngày 26 tháng 7. www.reuters.com/article/us-china-politics-chongqing-idUSKBN1AB0FW.
  • Zhang, Yueran. 2020. ‘Cạnh tranh chính trị và hai phương thức đánh thuế quyền sở hữu tư nhân: Phân tích của Bourdieusian về Nhà nước Trung Quốc đương đại.’ Lý thuyết và Xã hội 49 (4): 669–707.
  • Zhao, Yuezhi. 2012. ‘Cuộc đấu tranh cho chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc: Bạc Hy Lai và xa hơn.’ Đánh giá hàng tháng 64 (5): 1–17.

Zhang Yueran: Là nghiên cứu sinh tiến sĩ xã hội học tại Đại học California, Berkeley. Nghiên cứu của ông tập trung vào kinh tế chính trị, (de) huy động và sự tương tác giữa các nhà nước và các lực lượng giai cấp ở miền Nam Toàn cầu. Anh ta cũng đã từng tham gia lao động và rời bỏ tổ chức ở cả Trung Quốc và Hoa Kỳ.

Tác Giả: Zhang Yueran, ngày 11 tháng 1 năm 2021, Tạp chí Made in China.

Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận