Sự chuyển đổi tân tự do trong giáo dục đại học của Australia

 “Úc ngày càng phụ thuộc vào lực lượng lao động sáng tạo, có trình độ học vấn và có năng lực để duy trì vị thế kinh tế và toàn cầu vững chắc.”

    • Heather Ridout, Giám đốc điều hành Tập đoàn Công nghiệp Úc, tháng 6 năm 2011 [i]

 

“Các trường đại học cũng vậy, sẽ cần nhiều tiền và sự khuyến khích hơn nếu muốn cạnh tranh với các đối thủ nước ngoài… Nếu Úc muốn cạnh tranh trong bất kỳ lĩnh vực nào khác ngoài quặng sắt, nước này sẽ cần một lực lượng lao động có trình độ cao”.

    • Tờ kinh tế, Tháng 5 năm 2011 [ii]

Những trích dẫn này được rút ra từ một báo cáo của Hiệp hội các trường Đại học Úc được viết vào năm 2011, có tiêu đề Một quốc gia năng suất: sự đóng góp của các trường đại học Úc vào năng suất quốc gia. Trong báo cáo này, đại diện cao nhất cho các hiệu trưởng đã lập luận về việc tăng cường tài trợ của chính phủ cho các trường đại học bằng cách cống hiến giáo dục đại học cho các dịch vụ nô lệ vì lợi nhuận của Úc. [iii] Bức tranh mà các hiệu trưởng vẽ ra là một khu vực đại học có mục tiêu chính là thúc đẩy năng suất kinh tế và biến những nghiên cứu lẫn học bổng trở nên phụ thuộc vào nhiệm vụ làm cho nền kinh tế Úc cạnh tranh quốc tế hơn. Bức tranh này xung đột với một ý thức hệ lâu dài vốn khuyến khích chúng ta nghĩ về các trường đại học như một cộng đồng học tập, quan tâm đến việc tìm kiếm chân lý, kiến ​​thức và học thuật để thúc đẩy sự phát triển xã hội. Trên thực tế, ý tưởng cho rằng các trường đại học nên phục vụ nhu cầu của chủ nghĩa tư bản không thể hiện sự khác biệt nhiều đối với vai trò mà giáo dục đại học luôn đảm nhận trong việc đáp ứng nhu cầu của giai cấp thống trị.

Nhu cầu phục vụ cho tư bản từ các trường đại học đồng nghĩa với một số thay đổi theo thời gian trong bản chất của giáo dục đại học Úc. Trước giai đoạn bùng nổ hậu Thế chiến thứ hai, các trường đại học ở Úc là những học viện tinh hoa đào tạo con cái của những người giàu có để thực thi quyền lực và đào tạo tầng lớp trung lưu cho các ngành nghề như luật, y khoa hoặc quản lý chính phủ. Từ những năm 1950 cho đến giai đoạn ngắn hạn của chương trình giáo dục đại học miễn phí từ 1974 đến 1986, chi tiêu của chính phủ tăng lên đã biến các trường đại học thành các học viện đại chúng tập trung vào việc đào tạo và sản xuất những công nhân có tay nghề cao mà chủ nghĩa tư bản hiện đại của Úc và các nhà tuyển dụng yêu cầu. Với sự bùng nổ của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới vào giữa những năm 1970, chính sách của chính phủ là hạn chế chi tiêu công cho các trường đại học. Giai cấp thống trị vẫn cần những người lao động có tay nghề cao nhưng chính phủ không còn sẵn sàng bỏ tiền ra để giáo dục họ. Trong những năm 1980, giáo dục đại học đã trải qua một thời kỳ tái cơ cấu tân tự do đáng kể do chính phủ Lao động Hawke và bộ trưởng giáo dục John Dawkins đứng đầu. Dawkins đã ủng hộ cách tiếp cận “người dùng trả tiền” cho giáo dục đại học. Trong hơn 30 năm qua, logic tân tự do này đã biến sinh viên thành khách hàng, khiến họ phải chịu gánh nặng bù đắp sự thiếu hụt cho nguồn tài trợ công ngày càng giảm và chịu những nợ ngày càng tăng, tạo ra một đội ngũ giảng viên làm việc quá sức và ngày càng bị cắt biên chế, đồng thời định hình các trường đại học thành các cơ quan hợp nhất khổng lồ như ngày nay.


Từ Menzies đến chủ nghĩa tân tự do

Giai đoạn đầu tiên trong quá trình mở rộng khu vực đại học của Úc là kết quả của sự bùng nổ kinh tế sau chiến tranh. Năm 1957, chính phủ Tự do Menzies đã ủy quyền cho Báo cáo Murray để “điều tra xem các trường đại học có thể phục vụ nước Úc tốt nhất như thế nào vào thời điểm phát triển kinh tế và xã hội lớn trong cả nước”. [iv] Báo cáo kết luận rằng việc mở rộng giáo dục đại học là trọng tâm hoàn toàn cho sự phát triển của lĩnh vực sản xuất và để chiết xuất nhiều giá trị hơn từ bộ phận sinh lợi nhất của nền kinh tế là các ngành công nghiệp chính. [v] Nó nhấn mạnh nhu cầu có nhiều sinh viên tốt nghiệp để tăng khả năng cạnh tranh của ngành và đáp ứng nhu cầu cần nhiều chuyên gia hơn trong dịch vụ công, giảng dạy và công tác xã hội. Nó cũng khuyến nghị việc mở rộng Chương trình Học bổng Khối thịnh vượng chung, đã trao học bổng trên cơ sở “thành tích” kể từ năm 1951, để khuyến khích việc tham gia nhiều hơn vào giáo dục sau trung học. [vi] Cùng với việc tập trung mở rộng các cơ sở đào tạo kỹ thuật, [vii] học bổng chính phủ đã nhanh chóng thu hút hàng nghìn người đến với đại học. Đến năm 1957, có 36.465 sinh viên giáo dục đại học, tăng từ mức thấp nhất sau chiến tranh là 28.792 sinh viên vào năm 1953. [viii] Những sinh viên này phụ thuộc nhiều vào tài trợ của chính phủ với một phần ba tổng số sinh viên toàn thời gian nhận học bổng Khối thịnh vượng chung năm 1956. [ix]

Từ những năm 1960 đến giữa những năm 1970, chính phủ tiếp tục đầu tư các nguồn lực đáng kể vào việc mở rộng khu vực đại học. [x] Báo cáo của chính phủ chỉ ra rằng vào năm 1963, hầu hết sinh viên là toàn thời gian và 37% trong số họ nhận được học bổng của chính phủ. Hơn nữa, 24% tổng số sinh viên bán thời gian được giảm một phần học phí để có thể học tập. [xi] Chính phủ tài trợ cho giáo dục đại học từ những năm 1950 đã không chỉ tăng số lượng sinh viên mà còn giúp củng cố ý tưởng rằng giáo dục sau trung học bây giờ là cần thiết để đảm bảo việc làm ổn định. Đến năm 1976, gần 30 phần trăm số người từ 18-34 tuổi đã đạt được trình độ sau trung học. [xii]

Chính phủ Whitlam đã bãi bỏ học phí cho giáo dục đại học vào năm 1973. Các học bổng cạnh tranh của Khối thịnh vượng chung do Menzies giới thiệu đã bị loại bỏ và thay thế bằng các khoản phụ cấp mang tính thử nghiệm cho tất cả sinh viên toàn thời gian theo Chương trình Hỗ trợ Giáo dục Đại học. [Xiii] Giáo dục miễn phí là một chính sách phổ biến, được thiết lập bởi một chính phủ đã hứa hẹn sẽ thay đổi và đang tiến rất nhanh vào quá trình cực đoan hóa những năm 1970. Tuy nhiên, sự ra đời của giáo dục miễn phí không chỉ đơn thuần là để đáp ứng cảm tình của công chúng đối với cải cách. Nó được thực thi để cung cấp cho ngành công nghiệp những sinh viên tốt nghiệp có kỹ năng cần thiết để hiện đại hóa hoạt động của công nghiệp, và đặc biệt là những sinh viên tốt nghiệp được đào tạo về CNTT, một lĩnh vực mới cho việc giảng dạy đại học. Chính sách giáo dục miễn phí của Whitlam đã đánh dấu đỉnh cao trong nỗ lực mở rộng sự tham gia vào giáo dục đại học của hai thập kỷ trước. Điểm mới là việc bãi bỏ học phí khiến chính phủ Khối thịnh vượng chung hầu như trở thành nguồn thu nhập duy nhất cho các trường đại học. [Xiv]

Sự trỗi dậy của các đại học tân tự do

Năm 1973-74 nền kinh tế thế giới rơi vào suy thoái. Ở tất cả các nước công nghiệp phát triển phương Tây, chính sách kinh tế tân tự do được coi là phương tiện để nâng cao lợi nhuận đang suy giảm. Quá trình chuyển sang chủ nghĩa tân tự do hay “chủ nghĩa duy lý kinh tế” được đặc trưng bởi các động thái tư nhân hóa tài sản công và mở ra nhiều bộ phận xã hội hơn cho các lực lượng thị trường, cùng với việc điều tiết nhiều hơn về lao động và các cuộc tấn công vào chủ nghĩa công đoàn để giảm lương và điều kiện lao động. Đối với giáo dục đại học, chủ nghĩa tân tự do có nghĩa là một cuộc chiến về tài trợ công cho các trường đại học. Trong khi chính sách của chính phủ dưới thời Menzies [xv] và Whitlam ít nhất cũng trả công cho những lợi ích xã hội của giáo dục đại học, các chính phủ mới ngày càng cố gắng tìm cách biến nó thành một thứ “hàng hoá tư nhân” mà sinh viên phải trả tiền. Khi Whitlam bị sa thải vào năm 1975, sự thay đổi này đã bắt đầu được tiến hành. Chính phủ Fraser Tự do kế nhiệm đã không đủ tự tin để áp dụng lại chính sách học phí, và với cuộc khủng hoảng lợi nhuận chủ nghĩa tư bản đang làm trầm trọng thêm nỗi lo sợ của giai cấp thống trị cũ về sự phụ thuộc của nền kinh tế vào khai thác mỏ và hàng hóa nông nghiệp, nhu cầu sinh viên tốt nghiệp có kỹ năng vẫn tiếp tục tồn tại. Quan điểm chính thức từ Canberra là chính phủ không đủ khả năng chi trả cho việc mở rộng cơ sở hạ tầng đại học cần thiết và “các biện pháp hãm chi đã được áp dụng mạnh đối với chi tiêu cho giáo dục đại học vào năm 1977”. [xvi] Tỷ lệ sinh viên nhận được một số hình thức hỗ trợ của chính phủ giảm mạnh, từ 70 phần trăm năm 1976 xuống còn 40 phần trăm năm 1982, [xvii] vì học bổng giáo viên và các khoản trợ cấp khác dành cho sinh viên Khối thịnh vượng chung đã bị loại bỏ dần.

Năm 1989 là một thời điểm mang tính bước ngoặt. Nó đánh dấu sự kết thúc của thời kỳ giáo dục miễn phí cho sinh viên trong nước dưới thời chính phủ Lao động Hawke. Bộ trưởng giáo dục của Hawke, John Dawkins, là kiến trúc sư của những thay đổi, được nêu trong Sách trắng năm 1988. Điều này nhấn mạnh sự cần thiết phải mở rộng hơn nữa giáo dục đại học, đặc biệt là cung cấp sinh viên tốt nghiệp cho các ngành công nghệ cao mới nổi, [xviii] nhưng rõ ràng là việc mở rộng này phải được tài trợ bởi sinh viên. Đến năm 1987, chính phủ Hawke đã ban hành một khoản phí hành chính cho tất cả sinh viên và cho phép các trường đại học bắt đầu thu phí đối với sinh viên quốc tế. Sách xanh, một tài liệu thảo luận về chính sách được phát hành vào tháng 12 năm 1987, đã gắn lợi nhuận trong tương lai với việc mở rộng giáo dục đại học, nêu rõ:

Cuộc sống hàng ngày của tất cả người dân Úc hiện đang bị ảnh hưởng nặng nề bởi các sự kiện trên thế giới. Tác động của những thay đổi về xã hội, văn hóa và chính trị, việc điều chỉnh kinh tế và phát triển công nghiệp đều có thể cảm nhận được ngay lập tức ở Úc. Kinh nghiệm gần đây của chúng tôi trên thị trường tài chính và thương mại quốc tế cung cấp một lời nhắc nhở rõ ràng và không thể chối cãi về thực tế này… Nếu chúng ta muốn đáp ứng và phát triển thịnh vượng với tư cách là một quốc gia, thì phải có những thay đổi về thái độ, thực hành và quy trình trong tất cả các lĩnh vực và ở mọi cấp độ của cộng đồng người Úc. Ngành giáo dục và đặc biệt là hệ thống giáo dục đại học của chúng ta phải đóng vai trò

Sách Xanh đồng thời báo trước sự suy giảm tài trợ của Khối thịnh vượng chung dành cho giáo dục:

Trong bối cảnh ngân sách hiện tại và có thể cả trong tương lai, những hạn chế về tài trợ công cho lĩnh vực giáo dục đại học dự kiến sẽ tiếp tục diễn ra. Sẽ rất khó khăn để một mình Khối thịnh vượng chung có thể cung cấp sự mở rộng đáng kể trong số lượng tuyển sinh giáo dục đại học… Các nguồn tài trợ bổ sung sẽ cần được nghiên cứu. [Xx]

Tuy nhiên, ngay cả với những ràng buộc về hỗ trợ học tập của chính phủ, số lượng sinh viên vẫn tiếp tục tăng. [Xxi] Đã có 350.000 sinh viên đại học đăng ký vào năm 1983 [xxii] và 400.000 vào năm 1989. [xxiii] Vào thời điểm Sách Trắng được phát hành, Dawkins đã thông báo rằng chính phủ đang điều tra các lựa chọn để mở rộng cơ sở tài trợ của các trường đại học. [xxiv] Kết quả của những cuộc điều tra này là sự ra đời của Chương trình đóng góp cho giáo dục đại học năm 1989 (HECS). HECS là một hệ thống cho vay trả chậm, theo đó chính phủ cung cấp cho các cơ sở giáo dục đại học một khoản tài trợ cho mỗi sinh viên, sinh viên sẽ được yêu cầu hoàn trả sau khi đi làm và thu nhập vượt ngưỡng nhất định. [Xxv] Các khoản vay của HECS là bước quyết định giúp chính phủ có thể đẩy vấn đề chi phí giáo dục đại học sang sinh viên. Ban đầu chúng được đặt ở mức cố định là 20% chi phí trung bình của một bằng đại học, hay $1800 vào năm 1989. [xxvi]

Chính vào thời của Hawke mà việc thúc đẩy các trường đại học kinh doanh thực sự bắt đầu. Trong một bài báo năm 2006, Davies, Gottsche và Bansel đã xác định tác động của các chính sách tân tự do của chính phủ Hawke đối với giáo dục. Họ kết luận rằng vào những năm 1980, năng suất kinh tế không còn được coi là bắt nguồn từ đầu tư của chính phủ vào giáo dục, mà là “từ việc biến giáo dục thành một sản phẩm có thể mua và bán như bất kỳ thứ gì khác trên thị trường toàn cầu hóa”. [Xxvii] Khi chi tiêu của chính phủ giảm, các trường đại học được khuyến khích trở thành doanh nghiệp nhiều hơn và tìm kiếm các nguồn doanh thu thay thế. [xxviii] Sách Trắng khuyến nghị rằng từ giờ trở đi, các trường đại học nên được coi là doanh nghiệp, chịu sự tác động của thị trường và hoạt động “hiệu quả” thông qua các hoạt động quản lý của khu vực tư nhân:

Nhiều đại học có quy mô cực lớn và ngân sách của họ tương đương với ngân sách của các tổ chức kinh doanh lớn. Người quản lý của họ được yêu cầu thể hiện các kỹ năng quản lý cấp cao và thể hiện khả năng lãnh đạo mạnh mẽ trong việc đáp ứng các mục tiêu kinh doanh của tổ chức. [Xxix]

Sách Trắng cũng kêu gọi các trường đại học hoạt động với ý thức cao hơn về nhu cầu của khu vực doanh nghiệp. Dawkins phàn nàn rằng trong quá khứ “các cơ sở giáo dục đã không quan tâm nhiều đến quan điểm của nhà tuyển dụng về thiết kế và nội dung của môn học”. [Xxx] Sách trắng cũng cho biết chính phủ có ý định “tiếp tục khuyến khích sự phát triển mối liên kết chặt chẽ giữa các cơ sở giáo dục đại học và nhà sử dụng lao động trong tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế Úc ”. [xxxi] Vào cuối nhiệm kỳ của mình, chính phủ Lao động đã tạo ra cơ sở hạ tầng để chuyển chi phí ở các bậc học cao lên sinh viên. Kể từ khi Sách trắng ra đời, sinh viên đã trả tiền hóa đơn cho cơ sở hạ tầng đại học cần thiết để thích ứng với sự bùng nổ số lượng sinh viên, một hình ảnh gắn liền với thời kỳ này, trong đó số sinh viên đăng ký học tăng 65% từ đầu những năm 1980 lên 580.000 sinh viên vào năm 1993. [ xxxii]

Từ Dawkins tới ngày nay: các xu hướng hiện tại của nền giáo dục đại học

Ngày nay, số lượng sinh viên theo học đã phình ra hơn một triệu, [xxxiii] nhưng các trường đại học của Úc nhận được một trong những tỷ lệ tài trợ của chính phủ thấp nhất so với tỷ lệ phần trăm GDP trong tất cả các nước OECD (xếp thứ hai mươi lăm trong số 29). [xxxiv ] Điều này trái ngược hẳn với năm 1964, khi Úc đứng thứ ba trong số 44 quốc gia về tài trợ trực tiếp của chính phủ cho sinh viên. [xxxv] Tài trợ của chính phủ cho giáo dục đại học đã suy giảm do cả chính phủ Tự do lẫn Lao động đều tiếp tục các chính sách tân tự do của thời Dawkins, xuyên suốt những năm 1990, 2000 và cho đến nay.

Chính phủ Tự do Howard chịu trách nhiệm cho việc cắt giảm lớn các chi tiêu cho các trường đại học từ năm 1997, bắt đầu từ những gì chính phủ Lao động trước đó đang bỏ dở. [Xxxvi] Vào thời điểm Howard lên nắm quyền vào năm 1996, HECS đã tăng khoản đóng góp cho sinh viên từ 1.800 đô la mỗi năm vào năm 1989 lên 2.454 đô la. mỗi năm. [xxxvii] Vào cuối thời chính phủ Howard, phí HECS, hoặc phí HECS-HELP như đã có từ năm 2005, [xxxviii] hiện được xác định theo mức độ tùy theo chuyên ngành theo học, dao động từ $ 4,077 mỗi năm cho sinh viên đang theo học các khóa học “ưu tiên của quốc gia” về giáo dục hoặc y tế, đến $8,499 mỗi năm. [xxxix] Từ năm 1996 đến năm 2003, việc giảm mức tài trợ cơ bản thực sự cho các trường đại học [xl] đã được đẩy nhanh khi chính phủ Howard thông qua luật trao quyền cho các trường đại học để tăng mức đóng góp của HECS lên tới 25 phần trăm các khoản phí do chính phủ quy định trước đây. Các hiệu trưởng là đối tác sẵn sàng trong việc tăng HECS, và mức đóng góp tối đa của sinh viên nhanh chóng trở thành tiêu chuẩn ở tất cả các trường đại học. [Xli] Chính phủ Rudd và Gillard hầu như không kìm hãm được tốc độ giảm tài trợ, bất chấp thực tế là cả hai đánh giá quan trọng về giáo dục đại học được thực hiện trong nhiệm kỳ của họ, đánh giá Bradley năm 2008 và đánh giá mức tài trợ cơ bản Lomax-Smith năm 2011, đã lập luận về sự gia tăng đáng kể của tài trợ công cho các trường đại học.

Đánh giá của Bradley nhấn mạnh thực tế rằng, mặc dù đầu tư của chính phủ cho lĩnh vực này đã tăng lên trong thập kỷ trước, nguồn tài trợ của Khối thịnh vượng chung cho mỗi sinh viên được trợ cấp trong năm 2008 thấp hơn 10% so với năm 1996. [xlii] Nó lập luận rằng điều này “là kết quả của sự kết hợp giữa việc cắt giảm trực tiếp, hạn chế lập chỉ mục trợ cấp và chuyển cán cân sang hướng đóng góp của sinh viên cao hơn”. [Xliii] Về cơ bản, số lượng sinh viên tiếp tục tăng dẫn đến tổng chi tiêu của chính phủ tăng lên, nhưng sinh viên đang đóng góp nhiều tài trợ hơn bao giờ hết. Các phát hiện của đánh giá Bradley được xác nhận bởi dữ liệu có sẵn. Trong khi vào những năm 1980, tài trợ của chính phủ chiếm khoảng 90% doanh thu của các trường đại học, [xliv] sau thập kỷ đầu tiên của sự thay đổi tân tự do, tỷ lệ tài trợ của chính phủ đã giảm xuống còn 57,2% vào năm 1995. [xlv] Nguồn tài trợ của Khối thịnh vượng chung cho các trường đại học đã giảm xuống còn 42,4% doanh thu trong năm 2011, [xlvi] năm gần nhất mà Bộ giáo dục đã cung cấp dữ liệu toàn diện. Úc có mức đóng góp tài trợ tư nhân cho các trường đại học cao hơn đáng kể so với nhiều nước phát triển khác. Do đó, trong khi đầu tư của chính phủ Úc tính theo tỷ trọng GDP ở mức 1,6%, tương đương với một số quốc gia xếp hạng cao nhất, chi tiêu tư nhân bằng hơn một nửa mức chi tiêu của chính phủ. [Xlvii] Đánh giá Bradley khuyến nghị chính phủ tăng tài trợ cơ bản cho việc giảng dạy và học tập ở giáo dục đại học khoảng 10% so với năm 2010. [xlviii]

Chính phủ Lao động đã bác bỏ khuyến nghị của Bradley về việc tài trợ công nhiều hơn cho các trường đại học và vào năm 2011 đã ủy nhiệm cho Đánh giá tài trợ cơ bản giáo dục đại học (Đánh giá Lomax-Smith). Toàn bộ mục đích của Đánh giá Lomax-Smith là xác định mức tài trợ mà các trường đại học Úc cần thiết để có màn thể hiện “cạnh tranh”. [xlix] Báo cáo cuối cùng của nó nhấn mạnh rằng một khu vực giáo dục đại học được tài trợ tốt là cần thiết để tạo ra các kỹ năng bắt buộc nhằm bù đắp tác động của nền kinh tế hai tốc độ và đáp ứng “những thách thức kinh tế” trong tương lai. [l] Bất chấp mục đích của nó, nghiên cứu thực hiện bởi đánh giá Lomax-Smith đã xác nhận những phát hiện của đánh giá Bradley rằng sinh viên đang ngày càng phải bù đắp cho sự thiếu hụt tài trợ của chính phủ. Đánh giá Lomax-Smith chỉ ra rằng “giá trị thực của đóng góp của Khối thịnh vượng chung cho mỗi sinh viên đã giảm mạnh kể từ giữa những năm 1990 và trong khi nó đã tăng lên kể từ năm 2003, nó vẫn thấp hơn nhiều so với năm 1994. Tổng mức tài trợ cơ bản đã được duy trì thông qua sự gia tăng đóng góp của sinh viên. ”[Li]

Hơn nữa, Đánh giá Lomax-Smith kết luận rằng nhiều ngành, từ kế toán đến luật, nghệ thuật thị giác và biểu diễn và khoa học nhân văn, đều bị thiếu hụt tài trợ: kinh phí họ nhận được không tương xứng với chi phí giảng dạy. Không có ngành nào nào được phát hiện là bị bội chi. [Lii] Đánh giá cũng xác định sự không công bằng trong kế hoạch đóng góp của sinh viên, vì sinh viên tập trung ở các khu vực học tập chi phí thấp với ít triển vọng về việc làm được trả lương cao trong tương lai, chẳng hạn như ngành nhân văn, lại đang đóng góp nhiều hơn (trong các nhóm HECS-HELP của họ) so với các nhóm trong các ngành mang lại triển vọng có việc làm được trả lương cao hơn khi tốt nghiệp. [liii] Để khắc phục sự bất công, Lomax-Smith ủng hộ việc tăng cường tài trợ công “với mục đích cuối cùng là đạt đến mức công bằng hơn 40:60 trong việc phân chia tài trợ cơ bản giữa sinh viên và chính phủ trong tất cả các ngành. ”[Liv] Báo cáo cuối cùng nêu đề xuất dứt khoát về việc tài trợ trực tiếp của chính phủ cho mỗi sinh viên, nói rõ:“ Mức tài trợ cơ sở trung bình cho mỗi nơi nên được tăng lên để nâng cao chất lượng giảng dạy giáo dục đại học và tối đa hóa tiềm năng của ngành để đóng góp vào năng suất quốc gia và tăng trưởng kinh tế. ”[lv]

Phản ứng của chính phủ Lao động đối với các phát hiện của Bradley và Lomax-Smith là bãi bỏ quy định và cắt giảm hơn nữa nguồn tài trợ của chính phủ. Chính phủ Gillard đã bày tỏ mong muốn tăng tỷ lệ tham gia vào giáo dục đại học để đến năm 2025, 40 phần trăm thanh niên sẽ có ít nhất là bằng cử nhân, tăng so với mức hiện tại là 32 phần trăm. [Lvi] Kể từ năm 2009, chính phủ đã loại bỏ quy định trước đây về mức tối đa cho các vị trí tại các trường đại học công được tài trợ. [lvii] Trong hệ thống “định hướng theo nhu cầu” mới này, các nhà quản lý đại học quan tâm đến việc thúc đẩy càng nhiều sinh viên đến các xưởng cấp bằng của họ càng nhanh càng tốt. Vào tháng 4 năm 2013, Gillard thông báo cắt giảm 2,3 tỷ đô la tài trợ công cho các trường đại học, bên cạnh khoản cắt giảm 1 tỷ đô la vào tháng 10 năm 2012. Chương trình bãi bỏ quy định hiện tại của chính phủ Lao động, cùng với việc giảm ngân sách hơn nữa, có nghĩa là việc mở rộng số lượng sinh viên tốt nghiệp mà chính phủ mong muốn sẽ diễn ra với nguồn kinh phí thiếu hụt do các trường đại học dựa vào cơ sở hạ tầng hiện có để mở rộng quy mô. [lviii] Sinh viên sẽ phải trả tiền cho việc mở rộng, trong khi chất lượng giáo dục của họ bị ảnh hưởng.

Sự nghèo đói của sinh viên

Nghèo đói là một đặc điểm trong trải nghiệm của sinh viên trong thời đại tân tự do của giáo dục đại học. Một số báo cáo đã tính toán rằng có tới 60% số sinh viên sống dưới mức nghèo khổ. [Lix] Năm 2006, các trường Đại học Úc đã thực hiện một cuộc điều tra về tình trạng nghèo của sinh viên, kết quả cho thấy 14,1% sinh viên toàn thời gian được khảo sát thường xuyên không có thức ăn bởi vì họ không đủ khả năng chi trả và phải vật lộn để trả tiền thuê nhà khi tiền Trợ cấp Thanh niên giảm xuống. [lx] Về cơ bản, tỷ lệ đói nghèo cao của sinh viên có thể được giải thích bởi ba yếu tố. Quan trọng nhất là sự sụt giảm hỗ trợ thu nhập của chính phủ cho sinh viên từ thời Dawkins đến nay. Ngoài ra, số lượng phí hoặc lệ phí “phụ trợ” liên quan đến việc học tập mà sinh viên phải trả đã tăng lên trong những năm qua với cách tiếp cận “người dùng trả tiền” của các trường đại học. Yếu tố cuối cùng và khó tính toán nhất là tỷ lệ sinh viên xuất thân từ các gia đình lao động ở đại học tăng lên do việc mở rộng giáo dục đại học.

Ngày nay sinh viên nhận được hỗ trợ thu nhập từ chính phủ ít hơn bất kỳ thời điểm nào kể từ khi sự mở rộng hàng loạt của khu vực đại học bắt đầu vào những năm 1950. Sau đó, chính phủ mong muốn có nhiều sinh viên tốt nghiệp có tay nghề cao hơn và đã chuẩn bị để khuyến khích sự tăng trưởng cần thiết trong việc đăng ký học bằng cách cung cấp học bổng. Chính phủ Whitlam đã thay thế các học bổng của Khối thịnh vượng chung bằng các khoản trợ cấp mức trung bình theo Chương trình Hỗ trợ Giáo dục Đại học (TEAS). Năm 1976, 70% sinh viên được nhận trợ cấp TEAS, [lxi] và trợ cấp được quy định ở mức 75,4% của chuẩn nghèo. [Lxii] Dưới thời Dawkins, TEAS được chuyển đổi từ một chương trình hỗ trợ phần lớn sinh viên và chi phí sinh hoạt của họ thành một chương trình chỉ nhắm vào những người thiệt thòi nhất về tài chính, hoặc những người được coi là có địa vị kinh tế xã hội thấp (SES). Đến năm 1987, khi những thay đổi trong Sách trắng được đưa ra, các khoản thanh toán hỗ trợ thu nhập cho sinh viên, hiện đã được đổi tên thành Austudy, đã giảm xuống mức tối đa 61,2% chuẩn nghèo và chỉ được cấp cho 42% sinh viên. [Lxiii] Howard và Chính phủ Rudd-Gillard tiếp tục các cuộc tấn công nhằm vào phúc lợi của sinh viên đã được thực hiện vào những năm 1980. Đến năm 2003, các khoản thanh toán phúc lợi cho sinh viên đã trở thành “Trợ cấp Thanh niên” hoặc Austudy cho sinh viên trên 25 tuổi. Hiệp hội Sinh viên Quốc gia đã sử dụng dữ liệu ABS để tính toán rằng trong năm đó khoản thanh toán tối đa hỗ trợ thu nhập cho sinh viên khi nhận Trợ cấp Thanh niên hay Austudy đã giảm chỉ còn 51,7% chuẩn nghèo. [lxiv] Trong quý 12 năm 2012, chuẩn nghèo của Henderson được đặt ở mức 481,98 đô la mỗi tuần cho một người có phải trả tiền nhà ở. Dưới thời của chính phủ Gillard hiện tại, khoản thanh toán Trợ cấp Thanh niên tối đa mà một sinh viên nếu đủ điều kiện sẽ nhận được là $407,50 mỗi hai tuần. [Lxv] Điều này có nghĩa là các khoản thanh toán hỗ trợ thu nhập cho sinh viên hiện được đặt ở mức 42,3% chuẩn nghèo. Không có gì ngạc nhiên khi mức độ nghèo đói của học sinh đã đạt đến đỉnh điểm như vậy.

Trên thực tế, số sinh viên đủ điều kiện nhận được hỗ trợ của chính phủ để học tập ít hơn so với các thời đại trước. Trái ngược hoàn toàn với những ngày trước khi Dawkins nắm quyền, khi phần lớn sinh viên nhận được một số hình thức hỗ trợ của chính phủ để học tập, báo cáo gần đây nhất về tài chính của sinh viên đã xác lập rằng vào năm 2006, chỉ có 30,4% sinh viên toàn thời gian nhận được Trợ cấp Thanh niên. [ lxvi] Trong hầu hết các trường hợp, việc đủ điều kiện nhận Trợ cấp Thanh niên được xác định bằng các khoản trợ cấp của cha mẹ. Đối với năm tài chính 2011-12, cha mẹ của những người nộp đơn Trợ cấp Thanh niên phải có tổng thu nhập chịu thuế thấp hơn $47,815 để sinh viên đủ tiêu chuẩn. [Lxvii] Trong năm 2008, thu nhập trung bình của gia đình là $58.608 mỗi năm. [Lxviii] Do đó, báo cáo của Liên đoàn Sinh viên Quốc gia nộp cho đánh giá Bradley đã chỉ ra rằng ngưỡng kiểm tra thu nhập quá thấp đến mức “hầu hết con cái của các gia đình lao động bị loại khỏi bài kiểm tra thu nhập của cha mẹ bất kể họ là chiến binh hay những người có sự nghiệp thành công”. [lxix] Càng ngày sinh viên thuộc tầng lớp lao động càng phải dựa vào việc chứng minh “tính độc lập” của họ để đủ điều kiện nhận Trợ cấp Thanh niên. Theo các thỏa thuận hiện tại, sinh viên được coi là độc lập với gia đình khi họ bước sang tuổi 22 hoặc nếu họ có thể chứng minh rằng đã làm việc được trả lương ít nhất 30 giờ mỗi tuần trong khoảng thời gian 18 tháng liên tục. [Lxx]

Sự phân chia giai cấp trong các trường đại học

Trong những năm qua, logic “người dùng trả tiền” được Dawkins đưa vào giáo dục đại học không chỉ khiến học phí cao hơn khi tốt nghiệp, mà còn khiến chính phủ ít hỗ trợ hơn cho sinh viên khi họ lấy được bằng cấp. Điều này đã dẫn đến sự phân chia giai cấp trong giáo dục vì sự suy giảm trong hỗ trợ thu nhập diễn ra đồng thời với việc chi phí sinh hoạt cao hơn và các khoản phí khác liên quan đến học tập tăng lên. Ví dụ, vào năm 2008, các trường Đại học ở Úc đã phát hiện ra rằng “54,8% sinh viên toàn thời gian có SES thấp báo cáo rằng tài chính của họ đang gặp khó khăn so với 43,4% sinh viên SES cao”. [lxxi] Hơn nữa, gần 68% sinh viên SES thấp báo cáo rằng tài chính của họ “thường là nỗi lo” so với 50% sinh viên SES cao. [Lxxii] Kết quả là rõ ràng: sinh viên phụ thuộc hơn bao giờ hết vào sự hỗ trợ từ gia đình hoặc việc làm công ăn lương để trang trải các chi phí liên quan đến việc học.

Sự thay đổi thành phần giai cấp của sinh viên đại học là yếu tố chính để hiểu được tình trạng nghèo của sinh viên. Cho đến khi chương trình học bổng của Khối thịnh vượng chung được mở rộng dưới thời Menzies, giáo dục đại học đã trở nên phổ biến đối với con em của tầng lớp lao động. Với việc chính phủ tài trợ cho sự chuyển đổi các trường đại học thành các học viện đại chúng, sự tham gia của tầng lớp lao động vào giáo dục đại học đã được khuyến khích và tăng đều đặn cho đến những năm 1970. Vào những năm 1980, một điều được chấp nhận phổ biến là giáo dục đại học làm gia tăng triển vọng việc làm của một người, và bằng cấp đại học thực sự ngày càng trở thành thứ trung tâm trong thị trường lao động đang phát triển. Vì vậy, khi Dawkins xuất hiện, mặc dù hỗ trợ thu nhập của chính phủ cho sinh viên bị cắt giảm và học phí tăng lên nhưng mức độ tham gia của sinh viên có xuất thân “SES thấp” vẫn không giảm. Sự tham gia nhiều hơn của sinh viên thuộc tầng lớp lao động vào giáo dục đại học rõ ràng đã góp phần làm tăng mức độ nghèo đói trong sinh viên. Các sinh viên thuộc tầng lớp lao động ít có khả năng phụ thuộc vào gia đình để hỗ trợ chi phí học tập, trả tiền thuê nhà hoặc mua sách giáo khoa. Chúng ta có thể phỏng đoán điều này mặc dù thực tế là khó có được số liệu thống kê về tỷ lệ tham gia hiện tại của sinh viên thuộc tầng lớp lao động. Vấn đề là, nhiều tài liệu giáo dục nhầm lẫn “tầng lớp lao động” với phạm trù SES thấp. Tuy nhiên, tình trạng kinh tế xã hội của sinh viên có thể suy ra được từ mã bưu điện của địa chỉ thường trú của họ. Đây là một thước đo rất hẹp chỉ phân loại những học sinh kém may mắn nhất vì SES thấp. Trong năm 2011, sinh viên SES thấp chiếm từ 16 đến 17 phần trăm tổng số sinh viên ghi danh. [Lxxiii]

Tuy nhiên, khi chúng ta nhìn vào số lượng sinh viên dưới góc độ nghề nghiệp của cha mẹ, chúng ta sẽ có một bức tranh rõ ràng hơn một chút về thành phần giai cấp của sinh viên. Ví dụ, nghiên cứu của Viện Grattan về nghề nghiệp của cha mẹ những sinh viên đang theo học cho thấy rằng, vào năm 2012, ít nhất 29% sinh viên chủ yếu thuộc tầng lớp lao động. Cha mẹ của những học sinh này làm công việc vận hành máy móc, lao động, lái xe, kỹ thuật viên hoặc công nhân, nhân viên công cộng hoặc nhân viên văn thư và bán hàng. [Lxxiv] Nhìn sang phần còn lại, 71% sinh viên ghi nhận nghề nghiệp của cha mẹ là “chuyên nghiệp” hoặc “quản lý”. [ lxxv] Ngay cả những số liệu thống kê này cũng bị sai sót khi đem ra làm thước đo thành phần giai cấp của sinh viên đại học. Chúng rất chung chung và không chỉ ra mối quan hệ chính xác của phụ huynh sinh viên với nền sản xuất. Không có danh mục dành cho chủ doanh nghiệp nhỏ. Nhưng quan trọng hơn, danh mục “chuyên nghiệp” rộng rãi chắc chắn bao gồm nhiều công nhân cổ cồn trắng. Trong mọi trường hợp, chúng ta có thể kết luận rằng sinh viên xuất thân từ tầng lớp lao động chiếm một tỷ lệ đáng kể trong tổng số sinh viên hiện nay. Ngày nay, với việc có nhiều sinh viên hơn đến từ các gia đình thuộc tầng lớp lao động, càng ít người có khả năng dựa vào hỗ trợ thu nhập từ cha mẹ, đặc biệt là nếu họ còn anh chị em ở nhà, và càng ít người đủ điều kiện để nhận số tiền trợ cấp Thanh niên đang giảm dần theo thời gian, trong khi ngày càng có nhiều sinh viên buộc phải đảm nhận các công việc làm thuê nặng nhọc để giúp cho việc học.

Vào năm 2007, các trường Đại học Úc đã thực hiện một cuộc điều tra về tình trạng nghèo của sinh viên, kết quả cho thấy 16,5% sinh viên đại học toàn thời gian làm việc ít nhất 20 giờ một tuần để hỗ trợ việc học của họ. [Lxxvi] Các tác giả của một bài báo tóm tắt báo cáo kết luận rằng “Việc chuyển gánh nặng chi phí ngày càng tăng của giáo dục đại học lên sinh viên đang có một tác động đáng kể… Khi sinh viên phải vật lộn để đối phó với gánh nặng này bằng cách tăng giờ làm việc được trả lương, có bằng chứng cho thấy mức độ gắn bó của sinh viên với trường đại học và chất lượng giáo dục của họ nói chung, dường như bị tổn hại. [lxxvii] Một báo cáo gần đây hơn, được công bố vào đầu năm 2013, cho thấy 80% sinh viên chưa tốt nghiệp làm việc để hỗ trợ việc học của họ, trung bình làm việc 16 giờ một tuần. [lxxviii]

Khoản nợ tốt nghiệp

Khi sinh viên tốt nghiệp, sau nhiều năm khốn khó, mức độ nợ nần của họ ngày càng chồng chất. Vì tài trợ của chính phủ cho giáo dục đại học giảm, các cá nhân sinh viên ngày càng phải chịu sự gia tăng của gánh nặng tài trợ cho giáo dục đại học dưới hình thức gia tăng các khoản nợ HECS-HELP. Báo cáo toàn diện về giáo dục đại học của Viện Grattan năm 2013 cho biết rằng kể từ năm 1989, tổng số nợ HECS-HELP đã tăng lên hàng trăm lần do số lượng sinh viên ngày càng nhiều hơn với mức phí cho mỗi vị trí trong đại học cao hơn. [Lxxix ] Vào năm 1989, khi lệ phí HECS là một khoản phí cố định mỗi năm, sinh viên sẽ phải gánh khoản nợ $5.400 cho một văn bằng ba năm. Vào năm 2013, nếu tính đến mức đóng góp tối đa cho phép cho mỗi năm học, sinh viên có thể tính trước được rằng bằng cấp của họ sẽ có giá từ 17.604 đô la cho một văn bằng giáo dục hoặc nhân văn học trong ba năm, đến 39.168 đô la cho bốn năm học luật. [Lxxx] Viện Grattan ước tính rằng nợ HECS trung bình ở mức 15.200 đô la, được trả trong 8,3 năm. [lxxxi] Năm 2002, nghiên cứu được thực hiện bởi Hội đồng các Hiệp hội Sau đại học Úc cho thấy khoản nợ HECS trung bình là 7.817 đô la cho mỗi sinh viên. [lxxxii] Tính theo giá đô la vào năm 2011, thu nhập từ phí HECS-HELP tăng hơn gấp đôi từ năm 1997 đến năm 2011. [lxxxiii]

Các chi phí cao liên quan đến việc học tập làm cho giáo dục đại học trở nên khó tiếp cận hơn. Mặc dù số lượng nhập học tiếp tục tăng song hành với việc tăng nợ, có các bằng chứng đáng kể cho thấy việc gia tăng nợ là một yếu tố ngăn cản sinh viên từ các gia đình lao động nghèo hơn. Thực tế là giáo dục đại học hiện nay tập trung vào việc làm hơn nhiều so với giai đoạn trước những năm 1970, vì vậy nhiều sinh viên có khả năng chấp nhận nợ HECS như một tấm hộ chiếu để có triển vọng việc làm tốt hơn. Trên thực tế, 3/4 sinh viên có bằng cử nhân coi công việc là lý do chính để học tập. [Lxxxiv] Tuy nhiên, vẫn có khả năng một tỷ lệ nhỏ con em của những người lao động chân tay hoặc nhân viên dịch vụ được trả lương thấp có khả năng vào đại học. [lxxxv] Năm 2008, chỉ có 15% sinh viên có xuất thân từ hoàn cảnh kinh tế xã hội thấp và con số này vẫn duy trì ở mức thấp. [lxxxvi] Cũng không có gì ngạc nhiên khi những sinh viên có xuất phát điểm kinh tế xã hội thấp ít xuất hiện tại các trường đại học “sa thạch” (nhóm các trường ĐH lâu đời nhất nước Úc, chú thích của người dịch) và trong các ngành luật và nghệ thuật, và tập trung nhiều hơn vào các khóa đào tạo nghề, chẳng hạn như giáo dục. [lxxxvii] Các nghiên cứu cũng đã chứng minh rằng nợ HECS khiến sinh viên tốt nghiệp khó tiết kiệm hơn để vay mua nhà, [lxxxviii] một vấn đề có thể là mối quan tâm của sinh viên tầng lớp lao động.

Thời đại Dawkins đã giết chết mọi đề xuất còn lại rằng giáo dục đại học mang lại những lợi ích xã hội quan trọng đến mức nó nên được cung cấp miễn phí bởi nhà nước. Khi chính sách giáo dục tân tự do trở nên nổi bật, giáo dục đại học ngày càng được coi là một đặc quyền mà sinh viên nên sẵn sàng chi trả. Nổi lên cùng với ý tưởng này là lập luận tương ứng cho rằng giáo dục đại học mang lại cái gọi là lợi ích “cá nhân” to lớn cho sinh viên. Các báo cáo gần đây về giáo dục của chính phủ cũng như các tổ chức nghiên cứu chính sách nhấn mạnh những lợi thế kinh tế mà sinh viên có được từ trình độ của họ. Mặc dù đúng là sinh viên tốt nghiệp nói chung kiếm được nhiều tiền hơn không học đại học, nhưng điều này không làm cho sinh viên trở thành một nhóm đặc quyền. Bỏ qua các số liệu thống kê về tình trạng nghèo của sinh viên, người được hưởng lợi chính của việc tăng cường ghi danh vào giáo dục đại học là giai cấp tư sản chứ không phải cá nhân các sinh viên. Trong nghiên cứu của mình về giáo dục đại học Úc, OECD phát hiện ra rằng mặc dù giáo dục đại học giúp sinh viên có thêm bảo hiểm thu nhập, nhưng mức bảo hiểm này lại thấp hơn ở nhiều quốc gia khác. Năm 2009, một công nhân có trình độ đại học có khả năng kiếm được nhiều hơn 35% so với một công nhân có trình độ trung học. Điều này đã xếp Úc đứng thứ hai mươi bảy trong số 32 quốc gia OECD về thu nhập sau đại học. [Lxxxix] Tạp chí Lomax-Smith kết luận rằng ở Úc, tỷ suất hoàn vốn “công” đối với giáo dục đại học – dưới hình thức cải tiến nghiên cứu và kỹ năng cho nhà tuyển dụng, đóng góp thuế cao hơn và chi phí thấp hơn cho việc cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe – cao hơn nhiều so với phần của “tư nhân” hoặc thuế cá nhân cho sinh viên. [xc] Nói tóm lại, sinh viên đang phải trả nhiều hơn cho giáo dục của họ, và các nhà tư bản Úc tiếp tục hưởng lợi từ lĩnh vực giáo dục đại học đã ngày càng được tổ chức để đáp ứng nhu cầu của họ.

Tư nhân hoá các trường đại học

Việc chính phủ giảm tài trợ cho giáo dục đại học kể từ năm 1989 đã tạo ra một khu vực đại học có bị tư nhân hoá nặng nề. Các nhà quản lý đại học ngày càng quan tâm đến việc chuyển đổi các cơ sở của họ thành các doanh nghiệp có lợi nhuận và sử dụng phương pháp giáo dục “vì lợi nhuận”. Các hiệu trưởng chủ trì các hội đồng quản trị hoạt động giống như hội đồng quản trị của các tập đoàn lớn, và thực sự là rất giống. Để đưa ra một ví dụ, cơ quan quản lý của Đại học Queensland, Hội đồng quản trị, bao gồm các thành viên đương nhiệm Charlie Sartain, Giám đốc điều hành của Xstrata Copper, và Timothy Cromnmelin, chủ tịch điều hành bộ phận môi giới chứng khoán của tập đoàn tài chính AMRO Morgans, và hiệu trưởng của nó là một luật sư công ty và thương mại. Năm 2006, Đại học Queensland tự hào tuyên bố rằng những nỗ lực có ý thức của mình trong việc bổ nhiệm các nhân vật kinh doanh vào ban giám hiệu đã mở đường cho một “phong cách quản lý dựa trên công ty hơn.” [Xci] Kể từ những cuộc bổ nhiệm này, Hội đồng quản trị Đại học Queensland đã đạt được những kết quả “kiểu công ty” như là quyết định cắt giảm chuyên ngành nghiên cứu về giới tính trên cơ sở “nhu cầu thấp” và ngừng thêm bốn chuyên ngành trong chương trình Cử nhân Văn học. [xcii] Hội đồng quản trị của Đại học Queensland không phải một ngoại lệ mà thuộc về số đông khi xét đến khía cạnh bề ngoài và mục tiêu của các cơ quan đại học ngày nay.

Ví dụ về bài phát biểu năm nay với câu lạc bộ Báo chí của người đứng đầu Hiệp hội các trường Đại học Úc, Glyn Davis có thể xem như một tư liệu. Davis đã rất nỗ lực để nhấn mạnh lợi nhuận và “năng suất” của các trường đại học Úc; ông khoe rằng họ nằm trong số những trường đại học hiệu quả nhất thế giới và “vượt xa tốc độ tăng trưởng năng suất trong hầu hết các lĩnh vực khác của nền kinh tế Úc”. [xciii] Theo đánh giá Bradley, mức năng suất cao hơn có thể được đánh giá dựa trên thực tế là hầu hết các trường đại học đều ghi nhận “thặng dư” – nghĩa là lợi nhuận – có được nhờ sử dụng hiệu quả không gian các toà nhà hơn và nhồi nhét nhiều khóa học hơn trong năm, với sự ra đời của các học kỳ hè hoặc ba tháng hè [xciv] – về cơ bản là đưa nhiều sinh viên hơn qua xưởng cấp bằng với tốc độ nhanh hơn.

Với tỷ lệ tài trợ của chính phủ ngày càng giảm kể từ thời Dawkins, các trường đại học đã áp dụng hai chiến lược chính để tìm kiếm nguồn tài trợ thay thế. Điều đầu tiên và quan trọng nhất trong số này là việc giới thiệu các suất học thu phí đầy đủ và khai thác sinh viên quốc tế ồ ạt. Vào những năm 1990, số lượng sinh viên quốc tế đã bùng nổ. Đánh giá Bradley sử dụng nghiên cứu của Bộ Giáo dục, Việc làm và Quan hệ Nơi làm việc để chỉ ra rằng sinh viên quốc tế chiếm 26,5% tổng số sinh viên vào năm 2007, tăng từ 8,5% vào năm 1996, [xcv] giảm nhẹ xuống còn 25,4% tổng số sinh viên nhập học vào năm 2011. [ xcvi] Báo cáo của Viện Grattan chỉ ra rằng sinh viên quốc tế tạo ra doanh thu 4,1 tỷ đô la mỗi năm cho các trường đại học. [xcvii] Vì vậy, có lý do chính đáng khi Glyn Davis có thể tuyên bố với Câu lạc bộ báo chí rằng sinh viên quốc tế hiện “hỗ trợ tài chính cho mọi đại học”. [xcviii] Ngoài việc đáp ứng nhu cầu của tầng lớp thống trị về lao động có tay nghề cao, các trường đại học hiện tạo ra lợi nhuận đáng kể cho nền kinh tế Úc. Sự chuyển đổi tân tự do của hệ thống đại học đã chuyển giáo dục đại học thành một ngành xuất khẩu dựa trên nhu cầu của sinh viên quốc tế. Năm 2011, giáo dục đại học là ngành xuất khẩu lớn thứ tư của Úc, tạo ra lợi nhuận 15,1 tỷ đô la. Giáo dục đại học chỉ bị ngành xuất khẩu vàng vượt qua một cách sít sao khi tạo ra 16 tỷ đô la lợi nhuận. Hai mặt hàng xuất khẩu có lợi nhuận nhiều nhất là quặng sắt và than đá. [Xcix]

Mối bận tâm cần phải thu hút nhiều sinh viên quốc tế hơn đã dẫn đến việc mở rộng ngân sách quảng cáo, khi các trường đại học cố gắng chiếm thêm “thị phần” và bán thương hiệu bằng cấp cụ thể của họ, cho dù là “bằng cấp thực tế” của Đại học Công nghệ Queensland hay “tiêu chuẩn thế giới bằng cấp ”do Đại học Melbourne bán. Các trường đại học cũng trở nên bị ám ảnh bởi “bảng xếp hạng quốc tế” của họ, được sử dụng như một thước đo thị trường về giá trị sản phẩm của họ. Các nhà bình luận về giáo dục như Raewyn Connell gần đây đã chỉ ra rằng vì những thứ hạng này được xác định chủ yếu bởi kết quả nghiên cứu của các trường đại học, sự tập trung vào chúng đã phục vụ cho việc xây dựng một hệ thống giáo dục đại học hai cấp, làm gia tăng sự phân chia giữa cái gọi là “sa thạch ” hoặc “nhóm 8 trường đại học” và nhiều trường đại học dạy nghề khác. Chiến lược thứ hai để thúc đẩy nguồn thu phi chính phủ là tăng cường kết nối giữa các trường đại học và doanh nghiệp, đặc biệt thể hiện ở ý tưởng rằng các nghiên cứu của các trường đại học nên phục vụ nhu cầu của ngành công nghiệp. Ý tưởng này được thể hiện trong lời khuyến khích của Davis rằng “những điều tuyệt vời sẽ xảy ra khi các nhà nghiên cứu và công nghiệp làm việc cùng nhau”. Bài phát biểu của ông trước Câu lạc bộ Báo chí ca ngợi “Trung tâm Đổi mới” của Đại học Sunshine Coast, nơi đã “giúp các doanh nhân huy động 26 triệu đô la tư bản cho hơn 90 doanh nghiệp địa phương”. [C]

Các cuộc tấn công vào lực lượng và chất lượng giảng dạy

Việc tái cơ cấu theo trường phái tân tự do của các trường đại học Úc đã dẫn đến việc cắt giảm khóa học, tỷ lệ sinh viên-giảng viên lớn hơn, lực lượng lao động đại học ngày càng phải làm việc quá sức và bị cắt hợp đồng. Tất cả những hiện tượng này đều là một phần nỗ lực quản lý đại học nhằm tăng lợi nhuận cho các tổ chức của họ. Việc cắt giảm các khóa học, đặc biệt là trong các ngành khoa học nhân văn, đã trở thành một trải nghiệm phổ biến trong các khuôn viên trường học vì các khoa nghệ thuật liên tục bị buộc phải giải thích cho ngân sách của họ. Ngay cả khi các khóa học không bị cắt giảm trực tiếp, một số khoa đã trở thành nạn nhân của tình trạng thiếu ngân sách được tạo ra bởi việc trợ cấp chéo, một quá trình mà các trường đại học lấy trợ cấp của sinh viên tham gia học khoa này để hỗ trợ cho khoa khác. Đánh giá Lomax-Smith nhận định rằng ngành luật và khoa học nhân văn đang gặp khủng hoảng kinh phí vào năm 2011. Điều này không phải do chi phí cung cấp cho các ngành này vượt quá kinh phí của chính phủ, mà là do các quyết định về ngân sách mà các trường đại học đang thực hiện – phân phối tài trợ hướng đến những ngành sinh lợi nhuận hơn, những ngành mà họ có thể tiếp thị cho sinh viên quốc tế và sinh viên trả phí đầy đủ. [ci] Đánh giá xác nhận rằng các khóa học nghệ thuật đã trở thành “mục tiêu rõ ràng về độ hiệu quả” của các cơ quan quản lý đại học quan tâm đến lợi nhuận. [cii] Với việc giảm tài trợ của chính phủ cho mỗi sinh viên, nhưng số lượng sinh viên ngày càng tăng, giảng viên đại học đã buộc phải trở nên năng suất hơn bằng cách dạy nhiều sinh viên hơn với chi phí thấp hơn. Đánh giá Bradley xác định rằng có mối liên hệ rõ ràng giữa quy mô lớp học và mức tài trợ của chính phủ dành cho các trường đại học:

Số tiền tài trợ của Khối thịnh vượng chung cho mỗi nơi được trợ cấp theo điều kiện thực tế vẫn thấp hơn đáng kể so với mức năm 1989, giảm từ 12.335 đô la năm 1989 xuống còn 10.802 đô la năm 2008… Trong cùng thời kỳ, chi phí giảng dạy và nghiên cứu của nhân viên và ngoài nhân viên đã tăng mạnh. Cho đến nay, những áp lực về chi phí này đã được đáp ứng bằng cách giảng dạy trung bình trong các lớp học lớn hơn nhiều, và các nhân viên giảng dạy làm việc nhiều giờ, có ít cơ hội tiếp xúc trực tiếp với từng sinh viên và giảm bớt sự tham gia của họ vào học bổng và nghiên cứu. [Ciii.]

Các trường đại học Úc đã tiến hành nghiên cứu về tỷ lệ giảng viên-sinh viên, so sánh số lượng giảng viên toàn thời gian có trách nhiệm giảng dạy hoặc nghiên cứu và giảng dạy được tuyển dụng trong một năm với tổng số sinh viên theo học. Vào năm 1990, có khoảng 13 sinh viên trên mỗi giảng viên; [civ] đến năm 2001, tỷ lệ sinh viên-giảng viên đã trở thành 20: 1. [Cv] Ngoài ra, tỷ lệ giảng viên đại học được thuê làm việc ngắn hạn đã tăng vọt. Mặc dù số liệu thống kê chính thức của chính phủ về nhân sự từ năm 2012 cho thấy 16,4% tổng số giảng viên có hợp đồng ngắn hạn, [cvi] các nhà nghiên cứu giáo dục khác và Liên minh Giáo dục Đại học Quốc gia đã xác nhận rằng hiện nay có 40-50% giảng viên toàn thời gian đã trở thành giảng viên không cố định [cvii] Đánh giá Lomax-Smith cũng sử dụng dữ liệu gần đây hơn để chứng minh tỷ lệ mất biên chế, cho thấy rằng những người làm việc ngắn hạn hiện nay chiếm 53% lực lượng làm công việc học thuật. [cviii] Điều này hoàn toàn trái ngược với tình hình năm 1990, khi những người giảng dạy ngắn hạn chiếm 1/10 tổng số giảng viên giảng dạy tại các trường đại học. [cix] Đội ngũ giảng viên ngắn hạn không có quyền được nghỉ có lương và không được trả tiền để nghiên cứu tri ​​thức mà họ cần đến để sử dụng trong giảng dạy. Các tác giả của một bài báo trên tạp chí về việc gia tăng tỷ lệ mất biên  đã làm rất tốt khi họ quan sát thấy rằng chất lượng giảng dạy ngày nay phụ thuộc vào mức độ sẵn sàng của các giảng viên để “bóc lột” bản thân vì ý thức “nghĩa vụ cá nhân và nghề nghiệp đối với sinh viên”. [Cx ]

Tình trạng cắt giảm biên chế, tỷ lệ sinh viên-nhân viên cao, các khóa học ít hơn và thiếu kinh phí có nghĩa là sinh viên đang bị các trường đại học bán một sản phẩm tồi tàn và họ ý thức được điều đó. Báo cáo của Lomax-Smith chỉ ra rằng mức độ hài lòng của sinh viên đã không tăng kể từ năm 2000. [cxi] Sự không hài lòng được thể hiện trong lời chứng thực của hơn 6.000 sinh viên trong khuôn khổ Khảo sát Nhận thức về Chất lượng Giáo dục của Sinh viên Đại học NUS vào tháng 4 đến tháng 5 năm 2010, chủ yếu liên quan đến việc thiếu liên lạc với cán bộ. 16% người được hỏi đã phải xem các bài giảng được ghi âm do số lượng sinh viên lớn. Một số phàn nàn phổ biến nhất liên quan đến số giờ tư vấn với cán bộ hạn chế và số lượng sinh viên cao. Việc trợ giảng bị coi là quá lớn. [Cxii]

Kết luận

Toàn bộ lịch sử của các đại học Úc là lịch sử của quá trình “giáo dục đại học” được chuyển sang phục vụ lợi ích của giai cấp tư sản. Từ cuối Chiến tranh thế giới thứ hai đến những năm 1980, nhu cầu của công nghiệp cần nhiều lao động có trình độ học vấn cao hơn đã biến thành động lực lớn để chính phủ tài trợ nhằm chuyển đổi các trường đại học tinh hoa trước đây thành các học viện đại chúng. Việc mở rộng số lượng sinh viên, được hỗ trợ bởi ngân sách công, là chính sách của các chính phủ Lao động và Tự do và đạt đến đỉnh điểm trong thời kỳ giáo dục miễn phí dưới thời Whitlam. Từ giữa những năm 1970, sự bùng nổ của cuộc khủng hoảng kinh tế đã đặt ra bối cảnh cho cuộc đại tu tân tự do đối với các trường đại học dưới thời Dawkins. Với lo ngại về việc tỷ suất lợi nhuận sụt giảm đang ở mức cao, giai cấp tư sản không còn sẵn sàng bỏ tiền ra đào tạo những người lao động có tay nghề cao mà nó cần đến. Dawkins đã mở ra một thời kỳ thay đổi toàn bộ, di sản chính của nó là việc đẩy chi phí cung cấp giáo dục đại học sang sinh viên.

Sự sụt giảm của tài trợ chính phủ cho giáo dục đại học trong 20 năm qua cũng đã biến các trường đại học thành các cơ sở có tư tưởng kinh doanh, nơi các hiệu trưởng và hội đồng quản trị đưa ra quyết định trên cơ sở cái gì sẽ tạo ra nhiều lợi nhuận nhất, từ việc giảng dạy khóa học nào đến những hợp đồng nào để cung cấp cho nhân viên. Với tình cảnh hiện đang phải chịu một khoản học phí cao nhất so với tất cả các nước OECD và gánh nặng với mức nợ ngày càng tăng, sinh viên đang bị bán một sản phẩm kém chất lượng, khi các trường đại học cắt giảm chi phí bằng cách thuê ít nhân viên hơn với những hợp đồng đơn giản hời hợt hơn. Nếu chúng ta muốn đấu tranh cho một hệ thống giáo dục đại học tốt hơn, chúng ta sẽ cần phải thách thức logic tân tự do được chôn sâu trong lòng của các trường đại học hiện đại.


*Chú thích:

[i] Heather Ridout, “Giáo dục bậc cao và công nghiệp”, Tờ Australia, 30 tháng 6, 2011.

[ii] “Trường hợp hành động: Hãy chuẩn bị”, The Economist, 26 tháng 5, 2011, Tr.7.

[iii] Các trường đại học Australia, một quốc gia năng suất: đóng góp của các trường đại học Australia vào năng suất quốc gia, tháng 9, 2011,

 http://www.universitiesaustralia.edu.au/resources/633/1140.

[iv] Ủy ban các trường đại học Úc, Báo cáo của Ủy ban về các trường đại học Australia (Báo cáo Murray), Nghị viện của Khối thịnh vượng chung Úc, 1957, Appendix A,

http://www.go8.edu.au/government-_and_-business/go8-policy-_and_-analysis/2009/50-year-old-report-on-the-role-of-australian-universities.

[v] Ủy ban các trường đại học Australia, báo cáo Murray, Tr.13.

[vi] Ủy ban các trường đại học Australia, báo cáo Murray, Tr.66.

[vii] Alan Barcan, Một lịch sử giáo dục Australia, báo đại học Oxford, Melbourne, 1980, Tr.329.

[viii] Ủy ban các trường đại học Australia, báo cáo Murray, Tr.29.

[ix] Ủy ban các trường đại học Australia, báo cáo Murray, Tr.25.

[x] Các báo cáo hội nghị của OECD, Sự chuyển đổi giáo dục Đại học từ Ưu tú sang Đại chúng, tháng 6 1993, Nhà in của Chính phủ Khối thịnh vượng chung, Canberra, tr.28.

[xi] Graham Hastings, “Sơ lược về sự phát triển lịch sử của các chương trình tài chính dành cho sinh viên Khối thịnh vượng chung Australia (1942-2008)”, Đệ trình đánh giá giáo dục đại học NUS, July 2008, p.3.

[xii] Cục thống kê Úc, Xu hướng xã hội Australia, tháng 4, 2013, cat. Số. 4102.0.

[xiii] Barcan, Một lịch sử của giáo dục Australia, Tr.392-393.

[xiv] Barcan, Một lịch sử của giáo dục Australia, Tr.392.

[xv] Ủy ban các trường đại học Australia, báo cáo Murray, Ch.1.

[xvi] Peter Karmel, Những phản ánh về một cuộc cách mạng: Giáo dục Đại học Úc năm 1989, Ủy ban Phó Thủ tướng Australia, Canberra, 1989, Tr.4.

[xvii] Bruce Chapman, Austudy: Towards a More Flexible Approach – an Options Paper, Department of Education, Science and Training, 1992, p.46, cited in Hastings, “Commonwealth student financial programs”, p.9.

[xviii] John Dawkins, Higher education: a policy statement (White Paper),Australian Government Publishing Service, Canberra, 1988, p.8.

[xix] John Dawkins, Higher education: a policy discussion paper (Green Paper), Australian Government Publishing Service, Canberra, 1987, p.iii.

[xx] Dawkins, Green Paper, Tr.75.

[xxi] Karmel, Reflections on a revolution, Tr.4.

[xxii] OECD conference papers, The Transition from Elite to Mass Higher Education, Tr.12.

[xxiii] Dawkins, White Paper, Tr.6.

[xxiv] Dawkins, White Paper, Tr.4.

[xxv] OECD conference papers, The Transition from Elite to Mass Higher Education, Tr.33.

[xxvi] Universities Australia, “Historical HECS data”, http://www.universitiesaustralia. edu.au/page/australia-s-universities/key-facts—data/student-numbers/.

[xxvii] Bronwyn Davies, Michael Gottsche and Peter Bansel, “The rise and fall of the neoliberal university”, European Journal of Education, 41 (2), 2006, p.311.

[xxviii] OECD conference papers, The Transition from Elite to Mass Higher Education, p.14.

[xxix] Dawkins, White Paper, pp.101-102.

[xxx] Dawkins, White Paper, p.66.

[xxxi] Dawkins, White Paper, p.66.

[xxxii] OECD conference papers, The Transition from Elite to Mass Higher Education, p.12.

[xxxiii] Department of Industry, Innovation, Climate Change, Science, Research and Tertiary Education, “Student 2012 first half year: selected higher education statistics publication”, http://www.innovation.gov.au/HigherEducation/HigherEducationStatistics/ Documents/Publications/2012firsthalfyearsummary.pdf.

[xxxiv] Denise Bradley, Peter Noonan, Helen Nugent and Bill Scales, Review of Australian Higher Education Final Report (Bradley Review), Department of Education, Employment and Workplace Relations, Canberra, 2008.

[xxxv] Hastings, “Commonwealth student financial programs”, p.3.

[xxxvi] Jane Kelsey, “Privatising the universities”, Journal of Law and Society, 25 (1), 1998, p.69.

[xxxvii] Universities Australia, “Historical HECS data”.

[xxxviii] In 2005, HECS became the Higher Education Loan Program or HECS-HELP.

[xxxix] Universities Australia, “Historical HECS data”.

[xl] Jane Lomax-Smith, Louise Watson and Beth Webster, Higher Education Base Funding Review Final Report, Department of Education, Employment and Workplace Relations, Canberra, 2011, p.7.

[xli] Andrew Norton, Mapping Australian Higher Education 2013 Version, Grattan Institute, 2013, p.51, grattan.edu.au/static/files/assets/4d439e14/184_2013_ mapping_higher_education.pdf.

[xlii] Bradley et al, Bradley Review, p.144.

[xliii] Bradley et al, Bradley Review, p.144.

[xliv] Raewyn Connell, “Neoliberalism in higher education: the Australian case”, 20 February 2013, http://www.isa-sociology.org/universities-in-crisis/?p=994.

[xlv] Department of Employment, Education, Training and Youth Affairs, Selected Higher Education Finance Statistics 1995, http://www.innovation.gov.au/HigherEducation/HigherEducationStatistics/Documents/Publications/Finance1995. pdf.

[xlvi] Department of Industry, Innovation, Science, Research and Tertiary Education, Finance 2011: Financial Reports of Higher Education Providers, 2012, http://www.innovation.gov.au/HigherEducation/ResourcesAndPublications/HigherEducationPublications/FinanceReports/Documents/Finance2011.pdf.

[xlvii] OECD (2012), Education at a Glance 2012, Table B2.3, p.47, http://dx.doi.org/10.1787/888932666114.

[xlviii] Bradley et al, Bradley Review, p.153.

[xlix] Lomax-Smith et al, Higher Education Base Funding Review, p. viii.

[l] Lomax-Smith et al, Higher Education Base Funding Review, p.3.

[li] Lomax-Smith et al, Higher Education Base Funding Review, p.4.

[lii] Lomax-Smith et al, Higher Education Base Funding Review, p.x.

[liii] Lomax-Smith et al, Higher Education Base Funding Review, p.xiii.

[liv] Lomax-Smith et al, Higher Education Base Funding Review, p.xv.

[lv] Lomax-Smith et al, Higher Education Base Funding Review, p.xix.

[lvi] Department of Education, Employment and Workplace Relations, Transforming Australia’s Higher Education System, 2009, p.12, http://www.innovation.gov.au/HigherEducation/Documents/TransformingAusHigherED.pdf.

[lvii] DEEWR, Transforming Australia’s Higher Education.

[lviii] Lomax-Smith et al, Higher Education Base Funding Review, p.14.

[lix] Amy Lawson, “60% of uni students live below the poverty line”, Sydney Morning Herald, 15 May 2005.

[lx] Marcia Devlin, Richard James and Gabrielle Grigg, “Studying and working: a national study of student finances and student engagement”, Tertiary Education and Management, 14 (2), 2008, p.114.

[lxi] Hastings, “Commonwealth student financial programs”, p.9.

[lxii] Hastings, “Commonwealth student financial programs”, p.10.

[lxiii] Hastings, “Commonwealth student financial programs”, p.10.

[lxiv] Hastings, “Commonwealth student financial programs”, p.12.

[lxv] Department of Human Services, “Payment rates for Youth Allowance”, 2013, http://www.humanservices.gov.au/customer/services/centrelink/youth-allowance.

[lxvi] Australian Vice-Chancellors’ Committee, “Background: Australian University Student Finances 2006”, 2007, http://www.universitiesaustralia.edu.au/ resources/272/1287.

[lxvii] Department of Human Services, “Income and assets test for Youth Allowance”, http://www.humanservices.gov.au/customer/enablers/centrelink/youth-allowance/income-assets-test.

[lxviii] Graham Hastings, Submission to Department of Education, Employment and Workplace Relations Review ofAustralian Higher Education, National Union of Students, 2008, pp.25-26, http://www.unistudent.com.au/home/documents/NUS%20HEReview%20Submission.pdf.

[lxix] Hastings, Submission to Department of Education, p.26.

[lxx] Department of Human Services, “Income and assets test for Youth Allowance”.

[lxxi] Richard James, Participation and Equity: A Review of the Participation in Higher Education of people from Low Socio-Economic Backgrounds and Indigenous people, Universities Australia, 2008, p. 40.

[lxxii] James, Participation and Equity, p. 40.

[lxxiii] Norton, Mapping Australian Higher Education, p.29.

[lxxiv] Norton, Mapping Australian Higher Education, p.30.

[lxxv] Norton, Mapping Australian Higher Education, p.30.

[lxxvi] Devlin et al, “Studying and working”, p.114.

[lxxvii] Devlin et al, “Studying and working”, p.121.

[lxxviii] Daniel Hurts, “Uni reform to hurt students”, The Age, 8 May 2013.

[lxxix] Norton, Mapping Australian Higher Education, p. 42.

[lxxx] Department of Industry, Innovation, Science, Research and Tertiary Education, “Commonwealth supported places and HECS-HELP information for 2013”, p.3, http://studyassist.gov.au/sites/StudyAssist/HelpfulResources/Documents/CSS%20and%20HECS-HELP%20information%20for%202013.pdf.

[lxxxi] Andrew Trounson and Christian Kerr, “Lost HECS debt $6.2bn, and rising”, The Australian, 21 January 2013.

[lxxxii] Hilary Pearse, “The social and economic impact of student debt”, Council of Australian Postgraduate Associations, 2002, p.8, http://www.capa.edu.au/files/ impact_of_student_debt.pdf.

[lxxxiii] Norton, Mapping Australian Higher Education, p.50.

[lxxxiv] Norton, Mapping Australian Higher Education, p.69.

[lxxxv] Norton, Mapping Australian Higher Education, p.30.

[lxxxvi] Bradley et al, Bradley Review, p.10.

[lxxxvii] Bradley et al, Bradley Review, p.30.

[lxxxviii] Pearse, “The social and economic impact of student debt”, p.9.

[lxxxix] OECD, Education at a Glance: OECD Indicators Australia, 2012, p.2, http://www.oecd.org/education/EAG2012%20-%20Country%20note%20-%20Australia.pdf.

[xc] Lomax-Smith et al, Higher Education Base Funding Review, p.108.

[xci] “UQ Senate’s downtown experience to take education higher”, UQ News, 1 August 2006, http://www.uq.edu.au/news/?article=10173.

[xcii] “Gender studies at the university of Queensland”, UQ News, 15 March 2013, http://www.uq.edu.au/news/?article=25969.

[xciii] Glyn Davis, “Address to the National Press Club”, 27 February 2013, http://www.smartestinvestment.com.au/2013/02/address-to-the-national-press-club-transcript/.

[xciv] Lomax-Smith et al, Higher Education Base Funding Review, p.7.

[xcv] Bradley et al, Bradley Review, p.70.

[xcvi] Department of Industry, Innovation, Science, Research and Tertiary Education, “Statistics on students attachment”, http://www.innovation.gov.au/HigherEducation/HigherEducationStatistics/Documents/Publications/FirstHalfStudentStatistics2011_Students.pdf.

[xcvii] Norton, Mapping Australian Higher Education, p.38.

[xcviii] Davis, “Address to the National Press Club”.

[xcix] Department of Foreign Affairs and Trade, Trade Matters 2012: Australia – Trading with the World https://www.dfat.gov.au/tradematters/.

[c] Davis, “Address to the National Press Club”.

[ci] Lomax-Smith et al, Higher Education Base Funding Review, pp.55-57.

[cii] Lomax-Smith et al, Higher Education Base Funding Review, p.60.

[ciii] Bradley et al, Bradley Review, p.149.

[civ] Universities Australia, “Student to teacher ratio”, http://www.universities australia. edu.au/page/australia-s-universities/key-facts—data/graduates—staffing/.

[cv] Bradley et al, Bradley Review, p.71.

[cvi] Department of Industry, Innovation, Climate Change, Science, Research and Tertiary Education, “Selected higher education statistics: staff 2012”, http://www.innovation.gov.au/HigherEducation/HigherEducationStatistics/StatisticsPublications/Pages/Staff.aspx.

[cvii] Tony Brown, James Goodman and Keiko Yasukawa, “Academic casualisation in Australia: class divisions in the university”, Journal of Industrial Relations, 52 (2), 2010, p.171.

[cviii] Lomax-Smith et al, Higher Education Base Funding Review, p.3.

[cix] Brown et al, “Academic casualisation”, Tr.170.

[cx] Brown et al, “Academic casualisation”, Tr.177.

[cxi] Lomax-Smith et al, Đánh giá về tài trợ cho cơ sở giáo dục đại học, Tr.29.

[cxii] Liên đoàn sinh viên quốc gia, Nhận thức của sinh viên đại học đối với khảo sát chất lượng giáo dục, 2010, Tr.12,

http://www.unistudent.com.au/site/NUSHighRes-02.pdf.


Rebecca Barrigos, từ Marxist left review

Người dịch: Vũ Hiền

 

Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận