INTIFADA CHO ĐẾN CHIẾN THẮNG! – Vì sao đó là điều mà người cộng sản kêu gọi?

Khi các cuộc ném bom bừa bãi mỗi ngày của Israel đang tàn sát hàng ngàn dân thường Palestine vô tội trong cái gọi là ‘nhà tù mở’ Gaza, khắp nơi đang dấy lên làn sóng đoàn kết với nhân dân Palestine. Ngay lập tức họ đã phải đối mặt những lời vu khống họ bài Do thái, chỉ trích họ thông đồng với khủng bố, đặc biệt là ở các nước phương tây. Các hội nhóm sinh viên bị đóng cửa, các cuộc biểu tình bị đàn áp. 

Một trong những vu khống đó nhắm vào khẩu hiệu “Intifada cho đến chiến thắng!” Để trả lời sự vu khống đó chúng ta phải nhìn vào di sản thực sự của Intifada, một nguồn cảm hứng và bài học cho những người cách mạng. Giai cấp thống trị luôn cố gắng đánh đồng cách mạng với đổ máu. Nhưng sự thật là máu của ai?


Intifada đầu tiên

Vào ngày 7 tháng 12 năm 1987, giai cấp thống trị bàng hoàng trước tin tức từ Palestine. Sau hai mươi năm bị Israel chiếm đóng trực tiếp bằng quân sự kể từ năm 1967, quần chúng Palestine đã làm nên lịch sử.

Mồi lửa là sự việc tài xế xe tải Israel sát hại bốn người dân Gaza. Những hành động khủng bố chống lại thường dân Palestine vô tội như vậy vốn đã thành chuyện thường tình cho đến lúc đó. Nhưng lần này, giống như mọi phong trào cách mạng khác, dường như mọi thứ đã đạt tới điểm mà quần chúng bắt đầu thấy đủ rồi.

Các phương pháp thông thường, kể cả bằng đạn thật, để trấn áp các cuộc biểu tình của người Palestine tại các vùng lãnh thổ bị chiếm đóng đã không có tác dụng. Giả định ngạo mạn của giai cấp thống trị Israel rằng một modus vivendi đã được thiết lập giữa kẻ áp bức và kẻ bị áp bức sớm bị tan vỡ. Intifada ra đời, không giống bất kỳ hình thức kháng cự nào trước đây của người Palestine.

Sức mạnh của Intifada đầu tiên không đến từ những cuộc tấn công bằng tên lửa hay những âm mưu ngầm. Nghĩa đen của từ ‘Intifada’ là ‘rũ bỏ’ và dùng để chỉ một cuộc nổi dậy quần chúng chống lại áp bức. Chính tính chất quần chúng của phong trào đã tạo nên sức mạnh cho nó. Toàn bộ người dân Palestine đã đứng lên chống lại sự chiếm đóng.

Trong vòng vài tuần, hàng chục nghìn ủy ban tự tổ chức đã được thành lập để chống lại mọi khía cạnh của sự cai trị của Israel. Sẽ không sai khi nói rằng những năm diễn ra phong trào Intifada đầu tiên đại diện cho phong trào dân chủ nhất từng thấy ở Palestine.

‘Các ủy ban nhân dân’ mọc lên như nấm trên khắp Palestine lịch sử, nơi thanh niên nam nữ đảm nhận trách nhiệm thách thức sự chiếm đóng ngày qua ngày. Lương thực, y tế, biểu tình và tự vệ được tổ chức từ cơ sở.

Cuộc đấu tranh bất ngờ và kéo dài đã dẫn đến các cuộc tổng đình công, đình công thương mại và phong tỏa. Sự bất tuân dân sự đã chảy trong huyết quản của Intifada đầu tiên. Cuộc nổi dậy nổi tiếng về thuế ở Beit Sahour – nơi người Palestine từ chối nộp các khoản thuế do chính quyền Israel đánh để tài trợ cho việc gây thương tích và giết hại con cái của họ – đã làm suy yếu hoàn toàn câu chuyện của Israel rằng họ đang đối phó với ‘những kẻ khủng bố’.

‘Các khu vực giải phóng’ được thiết lập trên khắp các làng, thị trấn và trại tị nạn của người Palestine, nơi các shabab (thanh niên Palestine) buộc lính IDF phải cúp đuôi bỏ chạy. Những người lính chân trần của làn sóng Intifada đầu tiên, những chàng trai trẻ chưa từng trải qua điều gì ngoài cuộc sống dưới sự chiếm đóng, thường chỉ được trang bị gậy gộc và đá cuội đã hiên ngang đối đầu với cỗ máy quân sự hiện đại của Israel.

Điều này đã gây ra tiếng vang mang tính biểu tượng trên toàn thế giới: một trận chiến thực sự của David với Goliath, với thanh niên Palestine cầm súng cao su.

Thanh niên nắm quyền kiểm soát các khu vực lân cận; chủ cửa hàng đóng cửa cơ sở kinh doanh của họ; và giai cấp công nhân Palestine từ chối làm việc ở Israel. Intifada đã trở thành một lời kêu gọi rõ ràng cho sự thay đổi của những người bị áp bức và nghèo đói trong khu vực.

Sự tức giận và tủi nhục tích lũy của người dân Palestine bùng nổ – và điều này có tác động nghiêm trọng đến toàn bộ khu vực. Tình đoàn kết tràn ngập trên các đường phố của các quốc gia Ả Rập. Cuộc đấu tranh của người Palestine bắt đầu gây tiếng vang ngay trong chính Israel, với sự đoàn kết nhỏ nhưng có ý nghĩa được thể hiện bởi các thành phần giai cấp công nhân và thanh niên Do Thái.

Cuộc đàn áp tàn bạo thậm chí còn bắt đầu làm rúng động những người lính IDF trẻ tuổi, những người đã lùi bước trước sự chiếm đóng. Sự chia rẽ sâu sắc trong giới lãnh đạo cấp cao của quân đội Israel cũng xuất hiện. Điều này đã được Tướng Orr, cựu chỉ huy tối cao của IDF tóm tắt: “Tất cả chúng tôi đều đồng ý rằng việc chiếm đóng phải chấm dứt, bởi vì đem so với việc chấm dứt  thì việc duy trì nó gây ra mối nguy hiểm lớn hơn nhiều cho an ninh của chúng ta”.

Những người theo chủ nghĩa Phục quốc Do Thái đã mất kiểm soát tình hình. Và đây chính là điều khiến đế quốc phương Tây lo lắng về lời kêu gọi Intifada. Chính xác là vì nó không có gì chung với chủ nghĩa khủng bố. Quả thực, nó đã cho quần chúng Palestine thấy rằng họ nên đi đầu trong cuộc đấu tranh của chính mình. Nó cho họ thấy quyền lực thực sự trong xã hội nằm ở đâu và đe dọa sẽ dạy cho người lao động trên toàn khu vực bài học đó.

Intifada đã làm rung chuyển nghiêm trọng nền tảng cai trị những người theo chủ nghĩa Phục quốc Do Thái – và các phương pháp của nó vẫn là con đường duy nhất để hướng tới với những người bị áp bức và nghèo khổ. Đó đã và vẫn là cách đấu tranh hiệu quả nhất để giải phóng lâu dài cho quần chúng Palestine nghèo khó.

Điệp khúc của những kẻ hoài nghi

Đối với những người, với sự thiếu hiểu biết táo bạo, đánh đồng Intifada với Hamas, chúng tôi sẽ đưa họ trở lại hồ sơ lịch sử. Được tài trợ bởi các cơ quan an ninh Israel, dưới sự giám sát của CIA, Hamas được thúc đẩy chính xác để cắt đứt các trào lưu xã hội chủ nghĩa và thế tục mạnh mẽ trong phong trào giải phóng Palestine.

Như Haaretz gần đây đã viết, Hamas tiếp tục được Netanyahu thúc đẩy vì những mục đích hoài nghi của riêng mình. Cộng sự của Netanyahu, Gershon Hacohen, đã để lộ sự thật này trong một cuộc phỏng vấn trên truyền hình vào năm 2019: “Chúng ta cần nói ra sự thật. Chiến lược của Netanyahu là ngăn chặn sự lựa chọn hai nhà nước dân tộc nên ông đang biến Hamas thành đối tác thân cận nhất của mình. Công khai thì Hamas là kẻ thù nhưng một cách bí mật thì đó là một đồng minh.”

Đây là một bí mật mở trong nhiều thập kỷ.

Đối với những người vẫn cố gắng xuyên tạc khẩu hiệu ‘Intifada cho đến chiến thắng’, chúng tôi lưu ý họ bằng lời của Michael Ben-Yair, Bộ trưởng Tư pháp Israel từ 1993 đến 1996:

“Intifada của người Palestine là một cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. Những người Israel chúng tôi đã nhiệt tình lựa chọn trở thành một xã hội thuộc địa, phớt lờ các hiệp ước quốc tế, tước đoạt đất đai, chuyển những người định cư từ Israel đến các vùng lãnh thổ bị chiếm đóng, tham gia trộm cắp và tìm kiếm lời biện minh cho tất cả các hoạt động này.”

Có rất ít từ cần được thêm vào đây.


Bạo lực bởi ai?

Đúng là đã có bạo lực trong Intifada đầu tiên.

Những phương pháp cực kỳ bạo lực đã được nhà nước Israel sử dụng để dập tắt cuộc nổi dậy của quần chúng. Hơn một nghìn người Palestine đã bị sát hại, trong đó có 237 trẻ em dưới 17 tuổi. Bản thân Netanyahu, trước khi giành được vị trí hiện tại, đã tuyên bố vào năm 1987 rằng IDF nên bắn để tiêu diệt những kẻ ném đá. Vào thời điểm này, ông giữ chức vụ đại sứ Israel tại ‘tổ chức nhân đạo vĩ đại’ Liên Hợp Quốc.

Yitzhak Rabin, bộ trưởng quốc phòng, người sau này bắt tay Arafat trên bãi cỏ Nhà Trắng trong Hiệp định Oslo, đã trở nên khét tiếng vì chính sách ‘đánh gãy xương’ đối với các shabab.

Các vụ trục xuất, đột kích, tịch thu tài sản và các mối đe dọa từ Shin Bet (cơ quan an ninh Israel) đã tô điểm cho phản ứng của Israel trước hành động phiến quân của người Palestine.

Người ta ước tính rằng cứ năm người đàn ông Palestine trên 15 tuổi ở các Lãnh thổ bị chiếm đóng thì có hai người đã bị cầm tù trong thời gian 1987-93. 40.000 đã người bị giam giữ hành chính, giữ làm con tin mà không cần xét xử hay cáo trạng thích đáng.

Các trại Ansar của Israel tràn ngập các mục tiêu chính trị và được gọi là ‘trại chết chậm’. Tra tấn về thể xác và tâm lý là chuyện thường ngày. Các tù nhân sẽ bị nhốt trong phòng cách ly, bị bao tải trùm kín đầu, còng tay và buộc phải đứng. Các phương pháp tàn bạo – lặp lại những hành vi lạm dụng sau này được thấy ở trại Abu Ghraib của Mỹ trong cuộc chiến tranh Iraq – là điều phổ biến.

Đương nhiên, kẻ thù của chúng ta không đề cập đến điều này. Tất cả những người lên tiếng kêu ca về việc ‘kích động bạo lực’ trong khuôn viên trường đều cố tình phớt lờ ai là người gây ra bạo lực thực sự và mục đích là gì. Doublespeak của họ là điều dễ hiểu. Bằng cách xếp hàng đằng sau giai cấp thống trị Israel, họ xin lỗi về sự đổ máu của một chế độ giết người, diệt chủng.

Những quý bà quý ông này đã khóc những giọt nước mắt cá sấu khi các bệnh viện bị đánh bom, nhưng vẫn không khoan nhượng khi đứng về phía chế độ Israel. Không có gì ngạc nhiên khi hàng triệu người không tin vào một lời nào họ nói ra hoặc tin vào những tiêu đề họ in ra.

Bi kịch

Intifada đầu tiên đã mở ra một tình huống thực sự chưa từng có. Tình hình trở nên bất ổn đến mức chủ nghĩa đế quốc Mỹ gây áp lực lên giai cấp thống trị theo chủ nghĩa Phục quốc Do Thái để nói về ‘giải pháp hai nhà nước’. Mọi việc phải được thực hiện để ngăn chặn một cuộc cách mạng toàn diện.

Ban lãnh đạo ‘chính thức’ của Palestine cũng lo lắng về mối đe dọa cách mạng. Khi Intifada lần thứ nhất nổ ra, các nhà lãnh đạo của Tổ chức Giải phóng Palestine (PLO) đóng quân ở Tunis. Intifada là một phong trào hoàn toàn tự phát và đã giành được quyền lãnh đạo của chính mình ở Palestine nằm ngoài tầm kiểm soát của PLO.

Yasser Arafat, người đứng đầu PLO, nhìn cuộc xung đột qua lăng kính chủ nghĩa dân tộc thuần túy. Ông không có quan điểm nào về một cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Trung Đông. Đối với giới lãnh đạo chính thức của Palestine, phong trào cơ sở, tự phát đã vượt khỏi tầm kiểm soát của họ, và họ quyết tâm vận động vào vai trò lãnh đạo và áp dụng biện pháp hãm lại.

Do đó, những người theo chủ nghĩa Phục quốc Do Thái đã có thể sử dụng các nhà lãnh đạo PLO.

Kết quả – dưới hình thức hiệp định Oslo năm 1993 – đánh dấu sự sỉ nhục đối với tất cả những gì mà người Palestine đã đấu tranh để đạt được. Với việc thành lập Chính quyền Palestine (PA), chủ nghĩa dân tộc của người Palestine đã bị thử thách nghiêm trọng và đã thất bại.

Arafat sử dụng quyền lực cá nhân của mình bằng cách dựa vào lực lượng dân quân của quần chúng Palestine. Ông đánh đổi nó như một con bài thương lượng với Israel, đồng thời trấn áp sự phản đối trong nước. Những cái bắt tay, hội nghị thượng đỉnh, lộ trình, bữa tối tại các khu nghỉ dưỡng sang trọng và các hiệp ước hòa bình mà ‘lãnh đạo’ Palestine làm trung gian biểu thị một điều – sự phản bội.

Giữa những năm 1993-2000, số lượng người định cư gần như tăng gấp đôi ở Bờ Tây từ 110.900 lên 190.206. Israel đã coi thường tất cả các cam kết chính được đặt ra tại Oslo. Việc tiếp tục chiếm đóng được hàng triệu người coi là trái đắng của ‘tiến trình hòa bình’.

Khi Bộ trưởng Quốc phòng bị coi thường của Israel, Ariel Sharon, đến thăm khu phức hợp nhà thờ Hồi giáo Al-Aqsa ở Đông Jerusalem bị chiếm đóng vào năm 2000, đây chính là giọt nước tràn ly cuối cùng đối với người Palestine. Hành động khiêu khích trắng trợn này đã khiến Intifada lần thứ hai bùng nổ.

Điều này một lần nữa bắt đầu như một cuộc nổi dậy quần chúng tự phát của người Palestine. Tất cả những điều đó đã được Arafat và đồng sự hứa hẹn. đã tan vào không khí. Một nền hòa bình và thịnh vượng chung giữa các dân tộc không thể đạt được trên cơ sở tư bản chủ nghĩa.

Nhưng việc thiếu một lãnh đạo cách mạng thực sự đã cản trở cơ hội chấm dứt sự chiếm đóng bằng cách đưa ra lời kêu gọi giai cấp đối với tất cả những người nghèo và bị áp bức trong khu vực hãy đứng lên. Theo nhiều cách, Intifada thứ hai được đặc trưng bởi sự cay đắng và tuyệt vọng.

Sự lãnh đạo của Fatah và Hamas – cũng đang trên đà phát triển – không có lối thoát. Thay vì đấu tranh quần chúng, như truyền thống của Intifada, họ ngày càng hướng tới các phương pháp ném bom và tấn công bằng tên lửa, những phương pháp này làm mất đi vai trò của quần chúng và không thể đánh bại sự chiếm đóng. Cuối cùng, lãnh đạo Fatah và Chính quyền Palestine đã đồng ý, theo ‘lộ trình hòa bình’ của George W Bush, chấm dứt các hành động vũ trang, và một lần nữa đảm nhận vai trò nhà thầu phụ cho IDF tại các vùng lãnh thổ bị chiếm đóng.

Sự trỗi dậy của Hamas trong những năm này là sản phẩm trực tiếp của việc Chính quyền Palestine đã dễ dàng đầu hàng Israel. Đây là bi kịch của Intifada.

Cơ hội lật đổ giai cấp thống trị theo chủ nghĩa Phục quốc Do Thái – và tất cả những kẻ độc tài ở Trung Đông chịu trách nhiệm về hoàn cảnh khó khăn của người Palestine – đã bị lãng phí. Nhưng đây chắc chắn sẽ không phải là lần cuối cùng.

Intifada cho đến chiến thắng!

Ba mươi năm trôi qua kể từ Oslo, không có gì ngạc nhiên khi giới trẻ Palestine đang nhìn lại những bài học lịch sử để tìm ra con đường tiến tới. Tất cả mọi người đều thấy rõ khả năng xảy ra một cuộc xung đột lớn hơn nhiều trên toàn bộ khu vực của những người bị áp bức dưới gót chân của chủ nghĩa đế quốc.

Trên hết các Intifada đều có hai bài học. Thứ nhất, quần chúng trong khu vực có sức mạnh to lớn khi tham gia đấu tranh – họ là sức mạnh duy nhất có thể lật đổ chủ nghĩa phục quốc Do Thái và chủ nghĩa đế quốc. Và thứ hai, sự lãnh đạo đó là yếu tố then chốt: muốn thực sự phát huy được sức mạnh tiềm tàng này, phải xây dựng được bộ máy lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Cuộc tổng đình công của người Palestine vào tháng 5 năm 2021 – được đặt tên là ‘Unity Intifada’ – là một bước đi theo hướng đấu tranh quần chúng. Chỉ thông qua cuộc đấu tranh cách mạng chống lại các chế độ của toàn khu vực – một Intifada mới – quần chúng mới được giải phóng khỏi xiềng xích của chủ nghĩa đế quốc.

Những người cộng sản đứng về phía những người bị áp bức trong cuộc đối đầu với kẻ áp bức. Đó là nghĩa vụ cơ bản của bất cứ ai đấu tranh cho một thế giới không có chiến tranh, áp bức và bóc lột. Do đó, chúng tôi sẽ không tiếp thu những bài giảng đạo đức từ những người đưa ra lời biện minh cho bạo lực của nhà nước Israel. Chúng tôi sẽ tiếp tục bảo vệ di sản cách mạng của cuộc nổi dậy của người Palestine, và khẩu hiệu của chúng tôi: 

Intifada cho đến chiến thắng!


Nguồn: In defence of Marxism

Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận