Biện chứng cách mạng và sự giải phóng nhân loại – Phần 2

Phép biện chứng của Marx


Quay trở lại với truyền thống của chủ nghĩa Marx, chúng ta sẽ khám phá ra rằng cả Marx và Engels đều giữ lại cấu trúc thiết yếu trong phép biện chứng Hegel: phổ quát, đặc thù và cá nhân. Ví dụ, trong Chủ nghĩa xã hội: Không tưởng và Khoa học, Engels đã trình bày như sau về sự phổ biến của phép biện chứng:

“Khi chúng ta xem xét và phản ánh thiên nhiên rộng lớn hoặc lịch sử của nhân loại hay cả hoạt động trí tuệ của chính mình, từ cái nhìn đầu tiên chúng ta thấy bức tranh của một sự vướng víu vô tận những mối quan hệ và sự tương phản… Do vậy mà chúng ta thấy rằng bức tranh lúc đầu như một toàn thể với những phần riêng lẻ ít nhiều vẫn còn lưu lại ở hậu cảnh…” (Engels, “Chủ nghĩa xã hội: Không tưởng và khoa học” trong tuyển tập MARX-ENGELS, Robert C.Tucker biên soạn, 1972, Tr. 694)

Giai đoạn này tương ứng với phổ biến trừu tượng của Hegel, đã ly khai với đặc thù. Engels tiếp tục:

“Nhưng quan niệm này, đúng thực như nó thể hiện cái đặc tính chung chung của bức tranh về vẻ bề ngoài như một toàn thể, không đủ để giải thích các chi tiết… Việc phân tích Tự nhiên thành những phần riêng lẻ, nhóm các quá trình và đối tượng tự nhiên khác nhau trong những lớp xác định, nghiên cứu về giải phẫu bên trong của các cơ thể hữu cơ ở dạng đa dạng của chúng – đây là những điều kiện cơ bản cho những bước tiến khổng lồ trong kiến ​​thức về Tự nhiên của chúng ta… Nhưng phương pháp làm việc này cũng khiến chúng ta hình thành thói quen quan sát các vật thể và quá trình tự nhiên một cách cô lập, ngoài mối liên hệ của chúng với cái toàn thể rộng lớn, quan sát chúng trong sự tĩnh tại, không chuyển động …” (Engels, “Chủ nghĩa xã hội: Không tưởng và khoa học”, Tr. 694-5)

Tới đây Engels đã mô tả sự hiểu biết bắt đầu với phổ biến trừu tượng và sau đó phân tích nó thành các thuộc tính đặc thù bên trong nó. Ông kết luận rằng khoảnh khắc biện chứng có sự tham gia bởi lý trí trong đó các yếu tố được kết hợp thành một tổng thể mới, phong phú hơn:

“Trong sự suy ngẫm về những thứ riêng lẻ, nó [sự phân tích trước đó] coi nhẹ sự kết nối giữa chúng …

“Hơn nữa, chúng ta nhận ra rằng khi xem xét kỹ hơn hai cực của một phản đề, tích cực và tiêu cực, ví dụ vậy, không thể tách rời khi chúng đối lập với nhau, và bất chấp mọi sự đối lập giữa chúng, chúng vẫn thâm nhập vào nhau…

“Không có quá trình hay phương thức tư duy nào bắt đầu được trong khuôn khổ của lý luận siêu hình [ tức là sự hiểu biết]. Phép biện chứng, mặt khác lại thấu hiểu được mọi thứ, sự biểu hiện và ý tưởng của chúng, trong mối liên hệ thiết yếu, sự kết nối, sự vận động, khởi nguồn và kết thúc của chúng.” (Engels, “Chủ nghĩa xã hội: Không tưởng và khoa học”, Tr. 696)

Trong giải trình cụ thể này, khi Engels tiến hành cung cấp các ví dụ về phép biện chứng, ông đã hạn chế chúng thành các hiện tượng tự nhiên với tuyên bố rằng “tự nhiên là bằng chứng cho phép biện chứng” (Engels, “Chủ nghĩa xã hội: Không tưởng và khoa học”, Tr. 696) Ông đã đề cập, ví dụ, tới vấn đề xác định tại thời điểm nào động vật chết hay sống và các ví dụ về điện tích dương và âm. Mặc dù loạt đánh giá của Engels là hoàn toàn đúng, nhưng những ví dụ như vậy cho ta cảm giác rằng phép biện chứng phù hợp nhất với nghiên cứu khoa học tự nhiên, điều này là trái ngược với những gì Hegel đã lập luận, và không bao gồm ứng dụng quan trọng nhất của phép biện chứng, ấy là vực sâu ngăn cách giữa tính chủ quan, hay ý thức của con người ở một mặt với mặt kia là tính khách quan, thế giới bên ngoài, phải được vượt qua.

Mặc dù các giới thiệu của Marx về phép biện chứng vừa phân tán vừa ngắn gọn, tuy nhiên phần mở đầu nổi tiếng của ông cho ấn bản thứ hai của Tư bản, Tập I, ít nhất cung cấp một cái nhìn thoáng qua về đánh giá của ông đối với phép biện chứng của Hegel. Ba câu cuối rất quan trọng:

“Tôi đã chỉ trích khía cạnh huyền bí của phép biện chứng Hegel cách đây gần ba mươi năm, vào thời điểm nó vẫn còn là thời thượng. Nhưng ngay khi tôi đang làm việc ở tập đầu tiên của Tư bản, lũ cáu kỉnh, kiêu ngạo và tầm thường, những kẻ đang khoa trương trong giới học thuật Đức bắt đầu vui thú đối xử với Hegel theo cách tương tự như Moses Mendelssohn đối xử với Spinoza trong thời của Lessing, ấy là như thể một ‘con chó chết’. Do đó, tôi công khai tự cho mình, người học trò của nhà tư tưởng vĩ đại đó, và thậm chí, ngay ở đây hay kia trong chương về lý thuyết giá trị, đã làm đỏm bằng lối biểu đạt đặc biệt từ ông. Sự bí ẩn mà phép biện chứng phải gánh chịu trong tay Hegel không có nghĩa ông đã bị ngăn cản để trở thành người đầu tiên trình bày các hình thức chuyển động chung của nó một cách toàn diện và có ý thức. Với ông chẳng qua là nó lộn ngược. Nó phải được đảo ngược lại để khám phá ra cái hạt nhân hợp lý trong lớp vỏ thần bí.” (Karl Marx, TƯ BẢN, Tập 1, Vintage books. 1977, Tr 102-3)

Khi Marx tin rằng Hegel là người đầu tiên trình bày “các hình thức chuyển động chung” của phép biện chứng, điều này đề cập đến các hình thức phổ biến, đặc thù và cá nhân, trong đó đặc thù đại diện cho phủ định đầu tiên, và cá nhân sau đó là phủ định của phủ định. Trong cuộc thảo luận về phương pháp luận trong phần Giới thiệu về Grundrisse, mặc dù ông không sử dụng thuật ngữ “phổ biến”, “đặc thù” và “cá nhân”, các khái niệm này vẫn hiện diện:

“Khi chúng ta xem xét một quốc gia nhất định theo quan điểm kinh tế – chính trị, chúng ta bắt đầu với dân số, chia nhỏ nó ra thành các giai cấp, khu vực trong thành phố… Đó dường như là thủ tục chính xác để bắt đầu với thực tế và sự cụ thể, những điều kiện tiên quyết trên thực tế… Tuy nhiên khi xét kỹ hơn sẽ thấy nó là sai. Dân số là một cái trừu tượng nếu chúng ta gạt sang bên, ví dụ như các giai cấp mà nó bao gồm. Các giai cấp này, một lần nữa, cũng chỉ là một từ trống rỗng, trừ khi chúng ta biết các yếu tố mà chúng lấy làm cơ sở… Như thế, nếu chúng ta bắt đầu với dân số, chúng ta làm như vậy với một quan niệm hỗn loạn về tổng thể, và bằng phân tích chặt chẽ chúng ta sẽ dần dần đi đến những ý tưởng dễ hiểu hơn; một khi đạt được điều này, chúng ta có thể bắt đầu hành trình quay trở về để cho tới cùng chúng ta lại trở lại với dân số, nhưng lần này không phải là một quan niệm hỗn loạn về tổng thể, mà là một tập hợp phong phú của nhiều sự xác định và mối quan hệ. Phương pháp trước đây là phương pháp mà kinh tế – chính trị đã áp dụng trong quá khứ khi mới thành lập… Phương pháp thứ hai rõ ràng là phương pháp đúng đắn về mặt khoa học. Cụ thể là cụ thể vì nó là sự kết hợp của nhiều sự xác định; tức là một sự thống nhất của các yếu tố đa dạng.” (Karl Marx, GRUNDRISSE, Penguin books, 1973, Tr. 100-1)

Nói cách khác, chúng ta bắt đầu với một khái niệm phổ biến, trừu tượng, phổ biến như dân số và tiến hành phân tích nó thành các thuộc tính cụ thể của các giai cấp, v.v. Sau đó, chúng ta lấy các phần tử biệt lập này và kết hợp chúng thành một tổng thể mới, phức tạp “của nhiều sự xác định”, nghĩa là, “một sự thống nhất của các yếu tố đa dạng”.

Mặt huyền bí của phép biện chứng của Hegel không đề cập đến các hình thức cụ thể này nhưng cấu trúc bên trong của chúng đã được gắn vào trong hệ thống của Hegel. Cấu trúc này được cấu thành bởi một chủ thể duy nhất – được hình thành như Tinh thần hoặc ý thức tập thể của nhân loại – trải qua một quá trình phát triển tự thân để lịch sử chung quy là sự chinh phục của nhân loại ngày một cao hơn tới tính hợp lý và ý thức tự giác. Trên phương diện đó, lịch sử tuân theo một sự liên tục duy nhất, không ngừng nở rộ và ý niệm chung, khi chúng phát triển, trở nên ngày càng phong phú và phức tạp hơn, trái ngược với điểm khởi đầu đơn giản, trừu tượng của cái chỉ là “Tồn tại”, chẳng hạn.

Marx thế chỗ chủ thể duy nhất của Hegel bằng sự chấp nhận quan niệm về “sản xuất”, từ đó gán cho các chủ thể khác biệt những vai trò khác nhau, do đó làm suy yếu chủ đề về một chủ thể duy nhất:

“Coi xã hội là một chủ thể duy nhất là… cái nhìn sai lầm, võ đoán… Điều quan trọng cần nhấn mạnh ở đây chỉ là, liệu sản xuất và tiêu dùng được xem là hoạt động của một hay nhiều cá nhân có đúng hay không, chúng xuất hiện trong mọi trường hợp như là những khoảnh khắc của một quá trình, trong đó sản xuất là điểm khởi đầu thực sự và do đó cũng là khoảnh khắc nổi bật.” (Karl Marx, GRUNDRISSE, Tr. 94)

Mặc dù cả Marx và Hegel đều đồng ý rằng sự thật được thể hiện bằng một hệ thống “cụ thể bởi vì nó là sự kết hợp của nhiều sự xác định; tức là một sự thống nhất của các yếu tố đa dạng” (Karl Marx, GRUNDRISSE, Tr. 101) và họ cũng đồng ý rằng hệ thống này là sản phẩm của tư duy, nhưng Marx nhấn mạnh rằng logic của suy nghĩ tạo ra chân lý này không thể được khám phá theo tiến trình của bản thân lịch sử, như Hegel tin:

“Theo cách này, Hegel rơi vào ảo tưởng về sự nhận thức chân chính như là sản phẩm của sự suy tư tập trung vào chính nó, khai phá ra chiều sâu của chính nó và khai mở bản thân ra ngoại tại, nhờ chính nó, trái lại cách thức để vươn lên từ trừu tượng đến cụ thể chỉ là con đường trong đó tư tưởng chiếm hữu sự cụ thể, tái tạo nó thành sự cụ thể trong tâm trí. Nhưng đây chẳng phải là quá trình mà bản thân sự cụ thể ra đời.” (Karl Marx, GRUNDRISSE, Tr. 101)

Từ chối sự giải thích của Hegel về lịch sử như là một quá trình liên tục của các hình thức từ đơn giản biến thành các phiên bản phức tạp hơn, Marx theo đuổi một tầm nhìn về một loạt các cấu trúc cạnh tranh không liền mạch. Ví dụ, phạm trù trao đổi, chiếm vị trí thống trị trong xã hội tư bản hiện đại, đơn giản là không tồn tại trong mọi xã hội cộng đồng (communal societies), thậm chí không ở trong một dạng đơn giản hơn, trừu tượng hơn: … đơn giản là sai lầm khi đặt trao đổi ở trung tâm của xã hội cộng đồng như yếu tố khởi đầu và cấu thành.” (Karl Marx, GRUNDRISSE, Tr. 103) Mặt khác, một số xã hội rất “nguyên thủy” đã có những thời điểm bao gồm các hình thức khá tinh vi về hoạt động kinh tế, chẳng hạn như một hình thức phát triển cao của sự phân công lao động. Đối với Marx, lịch sử đơn giản là không tuân thủ theo một logic duy nhất.

Vì lý do này, Marx đã không thể hiện lý thuyết của mình về chủ nghĩa tư bản bằng cách theo dõi sự phát triển của các phạm trù kinh tế trong suốt quá trình hình thành lịch sử khác nhau, bắt đầu từ buổi bình minh của lịch sử:

“Do đó sẽ là không khả thi và sai lầm khi để các phạm trù kinh tế nối đuôi nhau theo trình tự như thể là trong đó chúng là quyết định về mặt lịch sử. Thay vào đó, trình tự của chúng được xác định bởi mối quan hệ của chúng với nhau trong xã hội tư sản hiện đại, điều này hoàn toàn trái ngược với thứ dường như là trật tự tự nhiên của chúng hoặc thứ tương ứng với sự phát triển về lịch sử.” (Karl Marx, GRUNDRISSE, Tr. 107)

Nói cách khác, mỗi kỷ nguyên lịch sử phải được hiểu theo nghĩa riêng của nó và không phải là bước hợp lý tiếp theo trong một tiến trình: “Trong tất cả các hình thức xã hội, có một loại sản xuất cụ thể chiếm ưu thế so với phần còn lại, mối quan hệ của chúng do đó được xếp hạng và ảnh hưởng đến tất cả những cái khác.” (Karl Marx, GRUNDRISSE, Tr. 106-7) Do đó, chính trong ý nghĩa này mà Marx đã nói, “phương pháp biện chứng của tôi không chỉ khác với Hegel mà còn hoàn toàn đối lập với nó.” (Karl Marx, “Tái bút”, TƯ BẢN, tập 1, op. cit. Tr. 102.)

Chuyển sang sự hiện diện của phép biện chứng trong bộ Tư bản, Marx đã cho chúng ta một ý nghĩa tổng quát trong đó nó vận hành:

“Trong hình thức hợp lý của chính nó [phép biện chứng] là một vụ bê bối và điều đáng ghê tởm đối với giai cấp tư sản và các giáo sư cố chấp của họ bởi vì nó bao hàm trong nó sự hiểu biết và sự thừa nhận dứt khoát về trạng thái hiện tồn của sự vật, và đồng thời, cũng thừa nhận sự phủ định của trạng thái đó, sự tan vỡ không thể tránh khỏi của nó; bởi vì nó xem mọi hình thái xã hội phát triển trong lịch sử như trong sự vận động thay đổi không ngừng, và do đó nắm bắt được trong sự mô tả bản chất nhất thời của nó không kém gì sự tồn tại ngắn ngủi của nó; bởi vì nó không cho phép bất cứ điều gì áp đặt lên nó, và phê phán và cách mạng là bản chất bên trong nó.” (Karl Marx, “Tái bút”, TƯ BẢN, tập 1, Tr103)

Đối với những vận động cụ thể hơn của phép biện chứng trong cuốn Tư bản, cần lưu ý rằng Marx đã không bắt đầu với một khái niệm trừu tượng, phổ biến về xã hội tư bản, ví dụ, với dân số, từ lâu những người tiền nhiệm của ông đã đi qua giai đoạn này. Thay vào đó, Tư bản bắt đầu với cái đặc thù, hàng hóa đã được chưng cất “thông qua sự phân tích” bởi các nhà kinh tế khác. Hàng hóa, như một phạm trù lý thuyết, đóng vai trò như chìa khóa vạn năng mở ra tất cả các cơ chế ẩn của xã hội tư bản. Giống như một tế bào ung thư xâm nhập vào mọi cơ quan trong cơ thể sống, hàng hóa, đặc biệt là dưới dạng tiền của nó, xâm nhập vào mọi lĩnh vực của xã hội tư bản. Bắt đầu với đặc thù trừu tượng này, ông đã tiến hành xây dựng xã hội tư bản như một tổng thể sống động, không chết cứng mà hữu cơ. Điều này có nghĩa là các yếu tố khác nhau không được xử lý riêng rẽ mà trong sự tương tác lẫn nhau và xung đột với nhau: “Tương tác lẫn nhau diễn ra giữa những khoảnh khắc khác nhau. Đây là tình cảnh của mọi tổng thể hữu cơ.” (Karl Marx, GRUNDRISSE, Tr. 100) Chính xác hơn, Marx đã nhấn mạnh vào mối quan hệ mâu thuẫn và đối kháng trong toàn thể hữu cơ này để thể hiện bản chất nhất thời của nó.

Ví dụ, bản thân hàng hóa chứa một “sự thống nhất của những khác biệt” (Karl Marx, TƯ BẢN, Tập 1, tr. 929) cho đến khi nó thể hiện cả giá trị sử dụng và giá trị trao đổi. Cho tới cùng, tất cả những mâu thuẫn hàm chứa bởi hàng hóa – giá trị sử dụng với giá trị trao đổi, lao động cá nhân với lao động xã hội tuyệt đối, sự nhân cách hóa mọi thứ (ví dụ, niềm tin của nhiều người rằng “tiền thống trị thế giới”) với con người hiện thân qua mọi thứ – đã khiến Marx lập luận rằng “tất cả những phản đề và mâu thuẫn này, vốn tồn tại trong hàng hóa, khẳng định bản thân và phát triển phương thức vận động của chúng, trong các giai đoạn đối lập của sự biến đổi của một loại hàng hóa. Những phương thức này do đó ngụ ý tiềm năng, không nhiều hơn không ít hơn, của những cuộc khủng hoảng.” (Karl Marx, TƯ BẢN, Tập 1, tr. 929)

Tất nhiên, đề tài trung tâm của Tư bản là mối quan hệ đối kháng giữa tư bản và công nhân. Người trước đòi hỏi tối đa hóa lợi nhuận để tồn tại trong khi người sau mưu cầu tối đa hóa tiền lương và lợi ích để sống. Mỗi người chỉ thành công bằng chi phí của người kia, và do đó nảy sinh “sự đối nghịch không thể tránh khỏi giữa kẻ khai thác với tài nguyên thô sức sống và lao động mà anh ta khai thác.” (Karl Marx, TƯ BẢN, Tập 1, tr. 929)

Do đó, khắp Tư bản Marx đã không xây dựng các quy luật phổ biến tương tự như định luật hấp dẫn, những thứ sẽ tồn tại với chúng ta chừng nào vũ trụ còn tồn tại, thay vào đó ông làm sáng tỏ những khuynh hướng mâu thuẫn trong chủ nghĩa tư bản mà cuối cùng sẽ dẫn đến sự sụp đổ của nó.

Có lẽ một trong những tài liệu tham khảo trực tiếp nhất về phép biện chứng của Hegel xuất hiện vào cuối Tập I của Tư bản:

“Phương thức chiếm đoạt tư bản, kết quả của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, tạo ra tài sản tư nhân tư bản chủ nghĩa. Đây là sự phủ định đầu tiên của tài sản tư nhân, được dựa trên lao động của chủ sở hữu. Nhưng sản xuất tư bản chủ nghĩa sinh ra, với sự bất khả xâm phạm của một quy luật của Tự nhiên, sự phủ định chính nó. Đó là sự phủ định của sự phủ định. Điều này không tái lập tài sản tư nhân cho người sản xuất, nhưng mang lại cho anh ta tài sản cá nhân dựa trên sự giành giật trong kỷ nguyên tư bản: nghĩa là hợp tác và sở hữu chung về đất đai và tư liệu sản xuất.” (Karl Marx, TƯ BẢN, Tập 1, tr. 929)

Nói cách khác, chúng ta bắt đầu với những người làm việc cho chính họ, sống rải rác trong xã hội trong các cửa hàng nhỏ và sở hữu sản phẩm lao động của họ. Sự phủ định đầu tiên dẫn đến việc nuốt chửng những nhà sản xuất riêng lẻ này vào một tập đoàn duy nhất, chẳng hạn như nhà máy. Tại đây, nhà máy, thuộc sở hữu của một nhà tư sản hoặc cá nhân, sử dụng nhiều công nhân, bằng cách hợp tác chặt chẽ, tạo ra một sản phẩm có độ phức tạp, tinh vi cao mà không bao giờ có thể được sản xuất bởi một cá nhân bị cô lập. Sự phủ định của phủ định được thể hiện bởi chủ nghĩa xã hội đó là vẫn duy trì những yếu tố tiến bộ của chủ nghĩa tư bản, cụ thể là hệ thống hợp tác xã hội phức tạp, nhưng bãi bỏ tư nhân, sở hữu cá nhân đối với các doanh nghiệp, ủng hộ “sở hữu chung về đất đai và tư liệu sản xuất,” (Karl Marx, TƯ BẢN, Tập 1, tr. 929) nghĩa là sở hữu được xã hội hóa, thứ tương ứng với hình thức xã hội hóa cơ bản của sản xuất.

VI. Một số ví dụ lịch sử

Trước khi chúng ta kiểm tra các ứng dụng cụ thể của phép biện chứng trong truyền thống Marxist, thứ trái ngược khá xa với những phân tích phổ biến do Hiểu biết thực hiện, sẽ khá là hữu ích khi phác thảo những cách tiếp cận chung được áp dụng bởi các phe đối nghịch này theo những thuật ngữ cụ thể hơn một chút.

Sự hiểu biết không chỉ đóng khung mình trong lĩnh vực của lẽ thường, thứ bao trùm hầu hết các nỗ lực của chúng ta, mà còn trong nhiều ngành khoa học, bao gồm cả vật lý học Newton. Sợi chỉ chung xuyên suốt các lĩnh vực này là chủ thể biệt lập, được trang bị những quan niệm trừu tượng, người phải đối mặt với một cái ngoại lai, thế giới bên ngoài của những thứ và sự kiện cụ thể mà người đó tìm cách hiểu, đánh giá hoặc đơn giản là thích nghi với chính anh ấy hoặc cô ấy. Ví dụ như Newton, người xây dựng định luật trừu tượng của trọng lực nhằm mô tả một mô hình của các sự kiện cụ thể. Trong hoạt động hàng ngày mọi người cố gắng hoàn thành cùng một mục tiêu ít nhiều trên một cơ sở không chính thức bằng cách xây dựng các giới luật phổ biến, ví dụ như, “Các đám cháy không được kiểm soát có thể gây nguy hiểm.” Khi mọi người thực hành đạo đức, họ hoan nghênh hoặc lên án các hành động khác nhau tùy theo việc chúng tuân theo hay vi phạm các nguyên tắc đạo đức trừu tượng. Nhưng cho tới cùng, chủ thể biệt lập vẫn đối lập với thế giới “khách quan”.

Marx và Hegel đều nhấn mạnh vào những hạn chế của cách tiếp cận chung chung của Sự hiểu biết. Phổ biến trừu tượng đơn giản là quá trừu tượng và không linh hoạt để giúp ích trong việc nắm bắt các biến đổi xã hội. Chẳng hạn, nhà đạo đức bắt đầu với niềm tin rằng giết người luôn sai, nhưng trong thời gian chiến tranh, giết người lại trở thành một kiểu hành vi chấp nhận được. Hoặc ai đó có thể đưa ra sự khái quát hóa về hành vi của con người, ví dụ, mọi người luôn muốn trả thù khi bị làm tổn hại, nhưng sau đó người đó phải bối rối với những cá nhân chín chắn hơn, những người thể hiện lòng trắc ẩn. Phổ biến trừu tượng bất lực khi đối mặt với một thế giới đang thay đổi. Thêm nữa, sự lên án về mặt đạo đức một hiện trạng không (trong và cho chính nó) làm sáng tỏ bằng cách nào để khắc phục hiện trạng này. Ví dụ, ai đó có thể kết luận rằng chủ nghĩa tư bản vi phạm những giới luật đạo đức bởi quan hệ bóc lột vốn có của nó, nhưng phán quyết này không cung cấp một toa thuốc nào, làm thế nào để chủ nghĩa tư bản có thể được thay thế bằng một xã hội nhân văn hơn? Và nữa trong khi nhà khoa học tự nhiên xứng đáng được công nhận nhờ công lao khai mở những bí mật của tự nhiên bằng các định luật trừu tượng, đối tượng nghiên cứu của anh ta hoặc cô ta là một thế giới tĩnh tại: ví dụ, các vật thể rơi xuống đất ngày nay cùng một cách như chúng đã làm hàng ngàn năm trước, ít nhất là ở cấp độ cơ bản nhất, những quy luật tự nhiên không đổi, không giống như những xã hội mà loài người cai trị liên tục trải qua sự thay đổi.

Ngược lại, phép biện chứng Marxist, hoạt động trên một trục hoàn toàn khác, vượt qua những thiếu sót bộc lộ ra trong sự thực hành những giả định của Hiểu biết. Nó bắt đầu với tiền đề, dựa trên quan sát lịch sử sâu rộng, con người luôn luôn bận rộn với việc tạo ra những quan hệ hoặc cấu trúc xã hội mới để nhân loại thực sự giống như một sinh vật trong quá trình phát triển. Hơn nữa, các hình thức này đã được tạo ra thông qua một cuộc đấu tranh giữa các giai cấp: lực lượng sản xuất mới đã sinh ra các giai cấp mới, từ đó đưa nhân loại lên một giai đoạn xã hội cao hơn. Giai cấp tư sản, chẳng hạn, đã đánh bại tầng lớp quý tộc phong kiến ​​nhưng giờ đây lại đương đầu với kẻ thù trần thế của nó, giai cấp vô sản. Marx đã xác định một số khuynh hướng khác nhau trong chủ nghĩa tư bản dẫn đến sự chuyển đổi cách mạng. Trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, giai cấp vô sản bị phân tán và yếu kém, nhưng khi các nhà tư bản có năng lực hơn nuốt chửng các đối thủ kém năng lực hơn, các doanh nghiệp ngày càng lớn lên. Xu hướng này sau đó làm tăng đáng kể số lượng công nhân trong bất kỳ doanh nghiệp nào, từ đó tạo điều kiện cho họ có khả năng giao tiếp với nhau, thảo luận các vấn đề chung và thống nhất bản thân trong một công đoàn, Soviet hoặc bất kỳ tổ chức tương tự nào. Đồng thời, những quy luật của chủ nghĩa tư bản đã không ngừng khẳng định mình bằng cách trao cho giai cấp vô sản sự khốn khổ ngày càng chồng chất. Để tồn tại, các nhà tư bản phải tối đa hóa lợi nhuận; nếu không thì, nhà tư bản có tỷ suất lợi nhuận cao hơn có thể đủ khả năng hạ giá sản phẩm trước các đối thủ cạnh tranh và buộc họ phải phá sản. Nhưng để tối đa hóa lợi nhuận, chi phí lao động phải giảm đến mức tối thiểu, một mục tiêu dễ dàng đạt được (trong ngắn hạn) bằng cách thay thế công nhân bằng máy móc. Và khi máy móc gánh vác những gánh nặng công việc, công nhân bị rớt xuống vị trí chỉ là “phụ trợ”, một vai trò đòi hỏi kỹ năng thấp với mức lương giảm tương ứng. Còn những công nhân khác chỉ đơn giản là bị thất nghiệp hoàn toàn. Vì vậy, khi giai cấp công nhân trở nên có tiềm năng mạnh mẽ hơn, sự tồn tại của nó lại càng trở nên bấp bênh hơn, tạo ra khả năng cho một sự bùng nổ đột ngột.

Chủ nghĩa xã hội, trong phân tích của Marx, không đại diện cho một sự thay thế tùy tiện hay một đòi hỏi đạo đức rời rạc. Đúng hơn là, ông lập luận rằng, với các điều kiện của giai cấp công nhân trong xã hội tư bản, chủ nghĩa xã hội tiêu biểu cho kết quả hợp lý từ những cuộc đấu tranh của công nhân để tự giải phóng mình. Chẳng hạn, quyền lực đối với họ chỉ có được thông qua việc tổ chức mình theo những nguyên tắc của sự đoàn kết, ở đâu công nhân càng thống nhất, họ càng có thể nắm giữ quyền lực. Nhưng sự thống nhất chỉ có thể được tối đa hóa nếu mọi thành viên đều bị thuyết phục rằng mình có tiếng nói trong việc xác định chính sách tập thể. Do đó, người lao động, với tư cách là người thụ hưởng trực tiếp, buộc phải thúc đẩy các thủ tục dân chủ triệt để. Hơn nữa, bởi họ không sở hữu tư liệu sản xuất mà phải cam chịu dưới tay kẻ khác, và bởi vì họ làm việc trong sự phối hợp với người khác tại mỗi doanh nghiệp, lợi ích của họ nằm ở hướng xóa bỏ quyền sở hữu tư nhân để thay vào đó là một xã hội hợp tác với quyền sở hữu được xã hội hóa sao cho các nguyên tắc quản lý xã hội phản ánh kinh nghiệm của chính họ. Nói cách khác, một xã hội xã hội chủ nghĩa được sinh ra trên tàn tích của chủ nghĩa tư bản và vẫn bao gồm trong chính nó di sản đó. Đây là những gì có nghĩa là “sự phủ định xác định” (determinate negation) của Hegel.

Một số nét khác biệt bao gồm trong phân tích của Marx về phép biện chứng cần phải làm rõ. Đầu tiên, bởi vì một hình thức mới đang phát triển ra khỏi một hình thức cũ, giữa hai cái đó là một mối quan hệ mâu thuẫn khi cái mới đấu tranh để tự khẳng định chính nó với chi phí của cái cũ trong khi cái cũ cố bám víu một cách tuyệt vọng. Thứ hai, bởi vì đây là một quá trình hữu cơ, các bộ phận cấu thành tương tác qua lại với nhau. Giai cấp vô sản được củng cố không chỉ như là kết quả của những nỗ lực tổ chức nội bộ của chính nó mà còn được khích lệ khi giai cấp tư sản bắt đầu chùn bước và mất niềm tin, v.v… một điểm mà khiến cho Hiểu biết khăng khăng duy trì mọi yếu tố trong sự cô lập. Thứ ba, trong tiến trình biến động mang tính cách mạng nơi giai cấp công nhân cống hiến bản thân cho công cuộc xây dựng một xã hội mới, các bước chuyển tiếp nhất thiết phải được vượt qua trước khi một tòa nhà hoàn toàn mới có thể được xây dựng. Thứ tư, cách tiếp cận này chứa đựng một biện chứng quyết định giữa chủ thể, giai cấp công nhân và khách thể, thứ ở đây được cấu thành bởi các thể chế trong xã hội tư bản, trong đó cả hai đều trải qua các biến đổi đồng thời. Ban đầu, khi giai cấp vô sản còn bị phân tán và yếu đuối, nó chấp nhận quan điểm của Sự hiểu biết. Ở giai đoạn này, người công nhân bị cô lập, thờ ơ và mất tinh thần, chịu phục tùng một thế giới thù địch, tin chắc rằng một xã hội nhân văn chỉ là bóng ma trong trí tưởng tượng của ai đó. Nhưng khi đông đảo công nhân được tổ chức và tuân thủ theo nguyên tắc của sự đoàn kết, phối hợp đấu tranh với nhau để theo đuổi lợi ích chung của họ và nhất quyết trên nguyên tắc rằng tổn thương cho một người là một tổn thương cho tất cả, bởi họ tạo thành quảng đại quần chúng, ý nghĩa của thế giới xung quanh và các tổ chức xã hội của chính nó trải qua một sự thay đổi mạnh mẽ, ngay cả trước khi bất kỳ hành động nào được thực hiện: những gì trước đây dường như là một thực tế không thể thay đổi giờ đây được coi là dễ uốn nắn, và giai cấp công nhân vươn lên với niềm tin rằng nó đủ sức để thay đổi “thực tế khách quan” cho phù hợp với lợi ích tập thể của chính nó.

Cách tiếp cận của Hiểu biết và nhà biện chứng do đó mà xoay quanh những trục khác nhau và thực tiễn được xác định khác nhau về cơ bản. Sự hiểu biết, lấy cá nhân bị cô lập làm điểm xuất phát của nó, sẵn sàng lên án những đặc điểm nhất định của thế giới chúng ta và đòi hỏi, thường là không thành công, rằng thế giới phải tuân theo những nguyên tắc của chính nó. Nhà biện chứng, với các giai cấp kinh tế làm điểm xuất phát, nhận thấy rằng xã hội loài người luôn ở trong trạng thái thay đổi về lịch sử, mặc dù đôi khi rất chậm. Ở đây ta xây dựng một ý tưởng chung về khuynh hướng mà mọi thứ đang phát triển để ảnh hưởng một cách hiệu quả đến tiến trình của các sự kiện. Nói cách khác, nếu muốn thực hiện một tác động người ta phải thuận theo dòng chảy khách quan. Theo nghĩa này, cá nhân phụ thuộc vào một tổng thể rộng lớn hơn thay vì đứng một mình nơi trung tâm vũ trụ của chính mình.

Giờ chuyển sang một số phân tích cụ thể trong lịch sử, chúng ta có thể thấy chính xác phép biện chứng được sử dụng như thế nào. Ví dụ, sự bất đồng đang diễn ra giữa những người vô chính phủ và những người theo chủ nghĩa Marx liên quan tới mối quan hệ thực sự của giai cấp công nhân đối với nhà nước được đặt ra trong hệ thống đối lập của chúng. Những người vô chính phủ, vẫn còn chân trong chân ngoài với triết học tư sản bởi sự đề cao của họ đối với cá nhân bị cô lập, chưa bao giờ phát triển một cách tiếp cận biện chứng nhất quán. Thay vào đó, họ trở nên nương tựa vào một bản chất con người vĩnh cửu, tiềm ẩn, trong đó mọi người được xem là tốt một cách tự nhiên. Do đó, các xã hội có giai cấp như chủ nghĩa tư bản được xem như là đang đàn áp cái bản chất này, chủ yếu là thông qua thể chế của nhà nước, không chỉ cấu trúc pháp luật bảo đảm cho quyền của nhà tư bản khai thác công nhân, mà còn sự thực thi pháp luật này thông qua lực lượng tàn bạo của bộ máy quân sự và cảnh sát. Do đó, từ quan điểm của những người vô chính phủ, phản ứng hợp lý là đập tan nhà nước để mọi người có thể tự động trở lại trạng thái cái tôi tốt đẹp tự nhiên của họ, giống như cách một sợi cao su trở lại trạng thái tự nhiên của nó khi không còn được kéo dài ra nữa.

Nhưng một phân tích biện chứng lại dẫn đến một kết luận trái ngược. Đối với những người theo chủ nghĩa Marx, đòi hỏi là tạo ra một xã hội mới với bản chất con người hoàn toàn mới, một nhiệm vụ không thể hoàn thành ngay lập tức mà đòi hỏi nhiều bước trung gian, hoặc, như Hegel nói, cần đến sự can thiệp. Do đó, nhà nước không thể chỉ đơn giản bị bãi bỏ mà phải được duy trì trong suốt thời gian chuyển tiếp, mặc dù ở trong hình thức thay đổi về căn bản. Một mặt, nhà nước của công nhân bảo tồn chức năng cưỡng chế, một chức năng không thể thiếu của mọi nhà nước. Các công nhân sẽ sử dụng nó để trấn áp giai cấp tư sản, những người ngoan cố và tuyệt vọng để đấu tranh giành lại quyền bá chủ bằng mọi cách có thể. Về mặt này đây là một sự tiếp nối với quá khứ, như Marx đã lưu ý: “Điều chúng ta phải giải quyết ở đây là một xã hội cộng sản, thứ không phải được phát triển trên nền móng của chính nó, mà ngược lại, mà nảy mầm trên xã hội tư bản; do đó, trong mọi khía cạnh, về kinh tế, đạo đức và trí tuệ, vẫn còn dấu ấn của những xã hội cũ mà từ đó nó lọt lòng.” (Karl Marx, “Phê bình cương lĩnh Gotha” trong Tuyển tập Marx-Engels, do Tucker biên soạn, tr. 529.) Mặt khác, nhà nước được cơ cấu lại một cách cơ bản để người lao động có thể nắm quyền lực một cách dân chủ cùng nhau, một cách thức hoàn toàn vắng bóng trong nhà nước tư sản. Nói cách khác, một tầng lớp nhỏ bé sẽ không còn ra lệnh từ đỉnh cao của quyền lực mà toàn bộ giai cấp công nhân sẽ cùng nhau thảo luận, tranh luận và thực hiện các quyết định của đa số. Với một nhà nước công nhân, sự hình thành cái mới này ngay lập tức bước ra khỏi quá khứ và do đó đại diện cho một bước đi theo hướng của một xã hội hoàn toàn mới. Bằng cách nắm bắt logic trong sự phát triển hữu cơ này, Phép biện chứng đã vén màn thứ động lực cơ bản, thứ đã hoàn toàn thoát khỏi những dáng vẻ tĩnh tại của Hiểu biết, đó là chỉ có thể hình dung chủ nghĩa tư bản như là sự đối lập với chủ nghĩa xã hội, chứ không phải dẫn đến chủ nghĩa xã hội thông qua một biến động cách mạng.

Một cuộc tranh luận lịch sử mang tính hướng dẫn quyết định nhấn mạnh vai trò của phép biện chứng xảy ra bên trong Đảng Công nhân Xã hội (SWP) vào năm 1939 – 1940. Cho đến thời điểm đó, vị trí được chấp nhận bởi đại đa số trong đảng là kêu gọi “sự ủng hộ vô điều kiện với Liên Xô”. Định hướng này tuôn ra từ một phân tích quyết định rằng Liên Xô là một “nhà nước công nhân”, tức là nền kinh tế đã bị quốc hữu hóa khiến cho các nhà tư bản không còn tồn tại. Tuy nhiên, Liên Xô cũng được xếp vào loại nhà nước công nhân bị “biến dạng” vì Stalin đã đè bẹp mọi thúc đẩy dân chủ, thiết lập chế độ toàn trị, trói chặt bất đồng chính kiến. Trong một xã hội xã hội chủ nghĩa chân chính, các công nhân trở thành giai cấp kiểm soát nhà nước để đa số thực sự cai trị, và với sự vắng mặt của nguyên tắc quan trọng đó, SWP đã không sẵn sàng coi Liên Xô là một xã hội “xã hội chủ nghĩa”. Khái niệm về một “nhà nước của công nhân” đại biểu cho một bước quan trọng để hướng tới chủ nghĩa xã hội với việc quốc hữu hóa nền kinh tế, nhưng đó chỉ là một bước. Do đó mà SWP đã bảo vệ Liên Xô với nền kinh tế quốc hữu hóa, nhưng đồng thời kêu gọi một cuộc cách mạng chính trị lật đổ bộ máy quan liêu của Stalinít để tạo ra một nhà nước do giai cấp công nhân kiểm soát.

Nhưng vào năm 1939, SWP đã bị dao động bởi cuộc tranh luận nội bộ, bị thúc đẩy bởi hiệp ước Hitler-Stalin, trong đó Ba Lan bị phân chia giữa Đức và Liên Xô. Sự kiện lịch sử này đã kích hoạt việc tạo ra một thiểu số trong SWP, dẫn đầu bởi Shachtman, Burnham, Abern và Bern, những người đã thách thức lập trường được thành lập bởi đảng đối với Liên Xô trên nhiều phương diện khác nhau. Lập trường của họ đòi hỏi rằng, bởi vì hiệp ước của Stalin với ma quỷ, thế nên, đảng phải ngừng bảo vệ Liên Xô, bất chấp nền kinh tế quốc hữu hóa. Kết luận này cũng dựa trên niềm tin rằng Liên Xô đã trở thành “đế quốc”. Tuy nhiên, họ không đồng ý với nhau về câu hỏi liệu đó có còn là nhà nước của công nhân hay không. Burnham lập luận rằng không phải nữa, với lý do là sự vắng bóng của nền dân chủ chân chính của công nhân. Shachtman toan giữ lại cái tên “nhà nước công nhân”, nhưng với điều kiện kèm theo rằng đó cũng là đế quốc.

Trotsky, người rất gần gũi với đảng, đã bảo vệ mạnh mẽ đường lối được thiết lập bởi SWP. Trong quá trình tranh luận, ông cáo buộc phe đối lập đã không tiếp cận các câu hỏi trước mắt một cách biện chứng. Các đối thủ của ông phản bác rằng phép biện chứng là không liên quan hoặc trái ngược với phân tích khoa học. Sẽ là hữu ích để xem xét một cách kỹ lưỡng hơn những cáo buộc và phản hồi lại chúng. Như chúng ta sẽ thấy, mặc dù cả hai bên dường như đang sử dụng cùng một từ, họ đã nói với hai ngôn ngữ cơ bản là khác nhau.

Quan điểm của Trotsky dựa trên niềm tin rằng thành quả của chủ nghĩa xã hội là một cuộc đấu tranh kéo dài. Burnham, đòi hỏi kết quả ngay lập tức, khước từ sự hoan nghênh với những bước chí ít có một phần đi theo hướng tiến bộ, và về mặt này, phân tích của ông là phản biện chứng. Bởi vì Liên Xô không phải là một xã hội xã hội chủ nghĩa hoàn hảo, nên nó hoàn toàn không phải là cái ấy. Nhưng biến đổi sâu sắc không bao giờ tuyến tính. Việc xây dựng một xã hội cách mạng với một nền văn hóa mới đôi khi sẽ gặp phải những thất bại, đặc biệt là khi giai cấp tư sản đang đấu tranh một cách tuyệt vọng để giành lại quyền lực và các thế lực đế quốc thế giới đang đe dọa trước thềm. Trên thực tế, ngay sau cuộc cách mạng, Liên Xô đã bị xâm lược bởi đế quốc phương Tây do Hoa Kỳ dẫn đầu, điều đã góp phần cho một cuộc nội chiến cay đắng. Phương tây cũng áp đặt một lệnh cấm vận kinh tế đối với kẻ thù cách mạng của nó, điều mà đôi khi đã làm tê liệt nền kinh tế. Mất đi nhiều nhà cách mạng tận tụy nhất trong cuộc nội chiến, Liên Xô không thể không chùn bước khi lảo đảo tiến về phía bình minh của một giai đoạn lịch sử mới. Burnham, tuy nhiên, vẫn mù quáng trước khung cảnh rộng lớn này, đã bỏ qua sự xét đoán như thể tiến trình của cuộc cách mạng được tuôn ra trực tiếp và chỉ từ sợi dây tinh thần của các nhà lãnh đạo.

Shachtman, trong khi chấp nhận rằng Liên Xô là một nhà nước của công nhân, đã nhất quyết cho rằng nó tuy thế đang thi hành một chương trình nghị sự đế quốc và vì vậy không nên được bảo vệ liên quan tới những dạng phiêu lưu này:

“Đó hoàn toàn là chính xác, theo quan điểm của tôi, rằng đặc trưng cho chính sách của Stalin là chủ nghĩa đế quốc, tất nhiên, với điều kiện là người ta chỉ ra đặc điểm cụ thể của nó, đó là, có sự khác biệt bên trong nó với chủ nghĩa tư bản đế quốc hiện đại … Stalin đã cho thấy rằng mình có khả năng để theo đuổi chính sách của đế quốc. Đó là sự thực…giống như mọi bộ máy quan liêu khác, chủ nghĩa Stalin quan tâm tới việc tăng thu nhập quốc dân không phải là để nâng cao mức sống của quần chúng mà là để tăng sức mạnh của chính nó, của cải của chính nó, đặc quyền riêng của chính nó.” (“Báo cáo về Câu hỏi nước Nga”, Bản tin nội bộ SWP, Tập II, Số 3, ngày 14 tháng 11 năm 1939)

Để hiểu lý do tại sao đây không phải là một phân tích biện chứng, người ta phải quay trở lại lý thuyết Marxist cổ điển về chủ nghĩa đế quốc, mà Trotsky là nhà vô địch. Marx đã lập luận rằng vì các nhà tư bản cạnh tranh với nhau, mỗi người phải cố gắng giảm thiểu chi phí sản xuất. Điều này có nghĩa là mua được lao động và nguyên liệu thô với giá rẻ mạt nhất. Khi những tài sản này được đặt tại các quốc gia kém phát triển, các nhà tư bản từ các quốc gia công nghiệp tiên tiến sẵn sàng dùng lực lượng quân sự để giành quyền kiểm soát chúng, từ đó đảm bảo sự sống còn của họ trước sự cạnh tranh khốc liệt. Nói cách khác, sự bất hòa về lợi ích giữa các nhà tư bản đã đẩy họ tới con đường của chủ nghĩa đế quốc, làm cho chủ nghĩa đế quốc trở thành hệ quả logic của chủ nghĩa tư bản.

Shachtman thừa nhận rằng những gì ông gọi là đế quốc chủ nghĩa Liên Xô về cơ bản khác với tất cả các ví dụ khác về chủ nghĩa đế quốc hiện đại vì nó không liên quan đến chủ nghĩa tư bản. Nhưng khi định danh như vậy, Shachtman đã hoàn toàn thất bại. Ông chỉ có thể giải thích nó theo những thôi thúc tâm lý, chẳng hạn như mong muốn của quan chức nhằm “tăng sức mạnh của chính nó, của cải của chính nó, các đặc quyền riêng của chính nó”, những thôi thúc có thể được hình dung ở bất cứ thời điểm nào trong lịch sử. Không có chỗ đứng cho phân tích này trong một nền tảng kinh tế cụ thể về mặt lịch sử. Không có nỗ lực để liên kết một cách hữu cơ nó với các lĩnh vực xã hội khác. Thay vào đó, thuật ngữ đứng lơ lửng một mình, biệt lập, và đơn giản trở thành một cách khác để chỉ sự tham lam của những cá nhân cụ thể, đó gần như không thể coi là một phân tích. Về mặt này, cách tiếp cận là hoàn toàn phi biện chứng.

Giống như Burnham, Shachtman dường như bất lực để hiểu Liên Xô trước bối cảnh đế quốc rộng lớn hơn. Mặc dù các nước đại tư bản ở phương Tây sẵn sàng chiến đấu với nhau để giành lấy các thuộc địa, nhưng họ cũng thống nhất trong quyết tâm tiêu diệt Liên Xô. Ngay cả những chính phủ tốt nhất của Liên Xô cũng sẽ bị buộc phải đánh đu với một chính phủ tư bản để chống lại một chính phủ khác, chỉ đơn giản là để trì hoãn thời gian với hy vọng rằng các cuộc cách mạng khác sẽ nổ ra ở các nước công nghiệp tiên tiến, cho phép nó thoát khỏi sự cô lập. Hiệp ước của Stalin với Hitler để phân chia Ba Lan chắc chắn là một phần trong nỗ lực ngăn chặn chủ nghĩa đế quốc Đức chiếm lấy toàn bộ Ba Lan, điều sẽ khiến nó tràn ngập biên giới Liên Xô. Ví như phe thiểu số đang định lên án một cá nhân vì chạy qua một vài cảnh báo dừng trong khi không xem xét chiếc xe đã bị cướp và một khẩu súng chĩa vào đầu người lái xe.

Phân tích của Trotsky, nhất quán với sự nhấn mạnh của chủ nghĩa Marx vào nền tảng kinh tế của xã hội như là lực đẩy cho sự thay đổi lịch sử, đặt ra một mâu thuẫn cơ bản giữa một bên là các nước tư bản đế quốc chủ nghĩa phương Tây và một bên là Liên Xô với nền kinh tế được quốc hữu hóa. Cuộc đấu tranh lịch sử chủ yếu đã được tiến hành giữa các nhân vật phản diện. Mặc dù Trotsky đã lên án hiệp ước Hitler-Stalin, tuy nhiên ông vẫn đặt nó trong phạm vi, và lệ thuộc nó vào bối cảnh rộng lớn hơn và do đó vẫn sẵn sàng bảo vệ Liên Xô trước sự xâm lược của đế quốc. Tuy nhiên, phe đối lập Shachtman đã bỏ qua cuộc đấu tranh lịch sử rộng lớn này để ủng hộ một sự lên án đạo đức đối với chính sách đối ngoại của Liên Xô. Theo đó, trong mắt phe thiểu số hiệp ước Hitler-Stalin đã cung cấp đủ cơ sở cho sự từ bỏ hoàn toàn sự bảo vệ Liên Xô. Bằng cách này, phe thiểu số đã thất bại trong việc cung cấp bất kỳ phân tích nào về những lực lượng mâu thuẫn cơ bản đang diễn ra trong tình thế lịch sử này, bao gồm bất kỳ dấu hiệu nào về phương hướng mà các sự kiện có khả năng mở ra. Trên thực tế, họ đã xem những lời kêu gọi về sự xem xét tới bối cảnh lịch sử như một cách né tránh câu hỏi về tầm quan trọng của hiệp ước Hitler-Stalin, khi họ phát động cuộc tấn công. Đối với họ, câu hỏi chủ yếu được đặt ra trong những điều kiện này là:

“Đặc điểm về vai trò của Nga trong cuộc chiến hiện tại là gì – không phải là cuộc chiến như nó đã được đoán định trước trong dịp này hay dịp kia, và không phải là cuộc chiến mà trong đó một cái này có thể hoặc sẽ được chuyển đổi, mà cuộc chiến hiện tại?” (Ý tưởng nào cho cuộc tranh luận về câu hỏi nước Nga? “Bản tin nội bộ của SWP, Tập II, số 8, tháng 1 năm 1940, Tr.5)

Vì vậy, các thành viên của thiểu số, thay vì xem mình là một phần của một quá trình lịch sử, đã rút mình ra khỏi cuộc đấu tranh tập thể và đảm nhận vai trò của khán giả bên lề, ban phát những tuyên bố đạo đức để thỏa mãn bản thân. Nhiều người đã hài lòng đến tầm thường với một vai trò như vậy và họ hiếm khi, đóng góp vào sự tiến bộ của lịch sử. Ở đây, cái tôi bị cô lập trở thành điểm khởi đầu cho mọi phán đoán, chứ không phải nhân loại trong quá trình tạo ra một thế giới tốt đẹp hơn, và vì lý do này, sự ngăn cách giữa Trotsky và đa số ở một mặt và thiểu số ở bên kia trở nên không thể vượt qua. Về sau sớm dẫn tới chia tách hoàn toàn.

VII. Phần kết luận

Trong khi phương ngôn có thể được sử dụng như một phương tiện để hiểu các quá trình tự nhiên, Marx và Hegel đã tin rằng những ứng dụng như vậy không làm cạn kiệt tiềm năng của nó. Một nhà khoa học tự nhiên nghiên cứu cẩn thận giới tự nhiên và khám phá ra những mối quan hệ biện chứng. Cho tới cùng, chủ thể, trong vai trò của nhà khoa học, và khách thể, hay giới tự nhiên, vẫn không có thay đổi. Nhưng khi phép biện chứng được đặt vào tay một cộng đồng những người xác định các lợi ích chung của họ một cách dân chủ, thông qua một quá trình thảo luận và tranh luận và sau đó tiến hành cách mạng hóa các thể chế xã hội để các thể chế này có thể phục vụ cho những lợi ích đó, thì ở đây phép biện chứng đang hoàn thành khuynh hướng cao nhất của nó: thuyết nhị nguyên giữa chủ quan và khách quan là ở mức độ này hay mức độ khác được vượt qua và nhân loại đạt tới sự giải phóng. Ngày nay, chỉ có giai cấp công nhân mới có khả năng thực hiện sứ mệnh lịch sử này.


Phần trước

Ann Robertson, Ngày 26 tháng 10 năm 2007

Nguồn: IMT

Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận