Sau lệnh đóng cửa: chủ nghĩa tư bản sẽ như thế nào?

Đại dịch coronavirus đã phơi bày những mâu thuẫn tiềm ẩn của chủ nghĩa tư bản, gây ra một cuộc khủng hoảng sâu sắc trên quy mô của những năm 1930. Sẽ không có sự phục hồi sau khi lệnh đóng cửa kết thúc, thay vào đó sẽ là một suy thoái kinh tế kéo dài.

Thế giới đã bị đảo lộn mọi mặt bởi đại dịch coronavirus. Chúng ta thực sự nhận ra điều đó thông qua tấm gương soi.

Hệ thống thị trường đang trong tình trạng hỗn loạn. Quy luật của chủ nghĩa tư bản đã bị phá vỡ. Với sản xuất bị tê liệt, nguồn cung sụp đổ. Ngay với những người bị nhốt trong nhà, nhu cầu cũng vậy. Giờ đây “Bàn tay vô hình” không biết đường nào để mà chỉ.

Lần đầu tiên trong lịch sử, giá dầu đã chuyển biến tiêu cực. Lãi suất – đã ở mức thấp nhất – giờ đây thực tế là nhiều nền kinh tế cũng đã ở dưới mức số 0. Và ranh giới giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa đã tan biến, khi các ngân hàng trung ương và chính phủ đoàn kết để ngăn chặn sự nổ tung của chủ nghĩa tư bản.

Những người trước đây giao giảng về ‘hiệu quả’ của thị trường tự do giờ đây đang yêu cầu các biện pháp cực đoan nhất và sự can thiệp của nhà nước để cứu chủ nghĩa tư bản. Cuộc khủng hoảng Covid-19 thậm chí còn biến ngay cả “Tories cũng thành những kẻ theo chủ nghĩa xã hội”, theo tạp chí Conservative The Spectator.

Giai cấp thống trị đang bơm hàng nghìn tỷ vào nền kinh tế toàn cầu. Các doanh nghiệp lớn bên bờ phá sản đang kêu gào đòi tiền cứu trợ. Và những ý tưởng như ‘thả trực thăng’ tiền, từng bị chế giễu và khinh miệt, giờ đang được các chiến lược gia nghiêm túc của tư bản xem xét công khai.

Nhưng ngay cả điều này cũng là không đủ. Nền kinh tế đã rơi tự do, giảm nhanh hơn và sâu hơn cả vụ sụp đổ năm 2008. Thất nghiệp đang tăng vọt, với hơn 30 triệu người (chính thức, cho đến nay) đã bị đuổi việc chỉ riêng ở Mỹ. Sự so sánh với cuộc Đại suy thoái có lẽ không còn là cường điệu. Nếu là bất cứ điều gì khác, thì chúng chỉ là một cách nói giảm nói tránh.

Xét cho cùng, dân số thế giới – và tầng lớp lao động – bây giờ lớn hơn nhiều so với những năm 1930. Và quan trọng là nền kinh tế thế giới đã hội nhập hơn bao giờ hết. Nói tóm lại, những gì chúng ta đang phải đối mặt ngày nay, không giống như bất kỳ sự sụt giảm nào trước đây, mà là một cuộc khủng hoảng toàn cầu thực sự của chủ nghĩa tư bản.

Hy vọng về mùa xuân vĩnh cửu

Tuy nhiên hy vọng về mùa xuân vĩnh cửu vẫn còn trong tâm tưởng chủ nghĩa tư bản. [i]”Chắc chắn đây chỉ là một chớp nháy tạm thời?”, quý ngài Moneybag và bạn bè ngân hàng của ông ta gợi ý. Theo đó là những dự đoán lạc quan về một sự phục hồi “hình chữ V”: Một sự sụt giảm đột ngột của hoạt động kinh tế trong thời gian đóng cửa, nhưng theo sau sẽ là sự phục hồi mạnh mẽ.

Không có nghi ngờ gì về phần đầu tiên của dự đoán này. GDP của Mỹ đã được dự đoán là sẽ cam kết bằng khoảng một phần ba trong quý hai của năm nay, với tỷ lệ tăng trưởng; và hơn 5% cho cả năm 2020. Ước tính tương tự đã được thực hiện với nền kinh tế Vương quốc Anhcho cả châu Âu. Tuy nhiên, nửa sau của phương trình này thì không quá chắc chắn. Rốt cuộc thì vẫn có nhiều chữ cái khác trong bảng chữ cái khi mô tả các đường cong của chủ nghĩa tư bản.

Một số người đã nói về một “hình chữ U”, với sự suy thoái kéo dài và có thể cuối cùng sẽ có một tiến bộ. Những người khác tung ra chữ W, đại diện cho một cuộc suy thoái ‘hai lần’ – một khả năng khác nếu có sự bùng phát lần thứ hai của virus. Một chữ “L”, đại diện cho một quá trình trầm cảm mới, cũng đã được đề cập đến một cách đáng ngại. Một số người thậm chí đã cảnh báo về một “chữ I”: một cú lao xuống thẳng đứng không có hồi kết!

Vậy thì trong số này, nếu như có thể, là kịch bản có khả năng nhất? Và bức tranh ‘hình chữ V’ màu hồng của các nhà tư bản dựa trên điều gì?

Dự báo về sự phục hồi nhanh chóng này dựa trên cùng một giả định duy tâm luôn làm động lực cho những người biện minh cho chủ nghĩa tư bản: Sự toàn năng của thị trường và niềm tin buông thả của họ vào nó. Thêm vào đó là một niềm tin rằng những biện pháp giãn cách xã hội hiện tại chỉ là một giai đoạn nhất thời.

Vâng, chúng ta có thể đang lao dốc ngay lúc này, các nhà tư bản lạc quan lên tiếng, nhưng căn bệnh sẽ sớm được kiểm soát và ‘sự bình thường’ sẽ sớm trở lại. Theo đó, nền kinh tế sẽ mở cửa trở lại, giống như một con vật thức dậy khỏi thời kỳ ngủ đông, đầy nhiệt huyết và việc kiếm tiền vui vẻ sẽ có thể bắt đầu trở lại.

Thật vậy, những tiếng nói tự do nhất thậm chí đã hoan nghênh cuộc khủng hoảng covid-19 vì đã cung cấp một vụ nổ của ‘hủy diệt của sự sáng tạo’ Schumpetarian.

Đây rõ ràng là vị trí đang được thúc đẩy bởi Tổng thống Trump ở Hoa Kỳ, người đã khẳng định rằng việc chữa bệnh không thể để cho nó tồi tệ hơn là mắc bệnh. Và cùng một dòng nhẫn tâm như vậy đang được rao giảng bởi một cánh của Đảng Tory ở Anh, đại diện cho lợi ích của các doanh nghiệp lớn, những người không có ý định về việc đặt lợi nhuận trước mạng sống.

Dịch bệnh kinh tế

Tuy nhiên, thực tế là nền kinh tế thế giới sẽ không phục hồi. Đại dịch sẽ để lại vết sẹo vĩnh viễn. Khi chủ nghĩa tư bản sụp đổ, nó không chỉ đơn giản là việc nhấn nút tạm dừng. Thay vào đó, các ngành công nghiệp đang bị sa lầy và công nhân đang buộc phải nghỉ phép ngày hôm nay – ‘dù tạm thời’ – có thể không bao giờ nhìn thấy lại ánh sáng ban ngày.

Giống như coronavirus, “sự suy thoái kinh tế cũng dễ lây lan như vậy”, nhà kinh tế Tim Harford viết trên tờ Thời báo Tài chính. Và “chi phí kinh tế cho việc đóng cửa cũng tăng theo cấp số nhân.”

“Đóng cửa một ngày không hơn nhiều một ngày nghỉ lễ”, Harford tiếp tục, “Đóng cửa trong hai tuần đe dọa tới những người đã ở trong một vị trí bấp bênh. Đóng cửa trong ba tháng có thể gây thiệt hại trên diện rộng kéo dài đến nhiều năm.”

Có rất ít bằng chứng cho thấy rằng nhu cầu bị dồn nén sẽ bùng nổ lên bề mặt một khi lệnh đóng cửa được dỡ bỏ. Du lịch, bán lẻ và giải trí có thể không bao giờ trở lại như cũ. Chẳng hạn, khoảng 60-70% người dân cho biết rằng họ khó có thể đặt trước kỳ nghỉ vào năm 2021, cả do những lo ngại về kinh tế lẫn sức khỏe. Chỉ 20% tin rằng họ sẽ đến các cửa hàng ngay lập tức một lần (nếu) chúng mở lại.

Ở những nơi khác, với việc các hãng hàng không thực sự đã rụng khỏi bầu trời, buộc phải quay sang các chính phủ để xin cứu trợ, tương lai của toàn bộ ngành hàng không đang được đặt dấu hỏi. Cũng như vậy với lĩnh vực dầu mỏ – đặc biệt là ở Mỹ, nơi các nhà đầu tư đã đổ hàng tỷ đô la vào sản xuất dầu đá phiến trong thập kỷ qua. Bây giờ, với nhu cầu và giá sụp đổ, các công ty dầu mỏ của Mỹ phải đối mặt với một mối đe dọa sống còn.

Điều tương tự cũng đúng với các nhà sản xuất xe hơi khổng lồ của thế giới, nhiều người trong số họ đã phải vật lộn trước khi dịch coronavirus bùng phát. Các công ty như Fiat Chrysler chuẩn bị phá sản chỉ sau ba tháng ngừng hoạt động. Những kẻ khác, như Ford và Renault, chỉ chậm thêm một vài tháng. Và người ta không được quên rằng tất cả các ngành công nghiệp này không chỉ tuyển dụng trực tiếp hàng triệu người, mà còn cung cấp công việc cho một mạng lưới các nhà cung cấp rộng lớn khác.

Đồng thời, một đội quân những doanh nghiệp ‘zombie’ đã được duy trì quá nửa bởi một huyết mạch của tín dụng giá rẻ thường trực trong những năm gần đây. Sự sụt giảm mới này cuối cùng có thể sẽ chôn vùi họ. Các ngân hàng đã sẵn sàng cho sự lây nhiễm của những khoản nợ trễ kỳ hạn thứ sẽ lan rộng qua hệ thống tài chính. Và bong bóng đang vỡ ở khắp mọi nơi, khi các nhà đầu tư rút lui khỏi các dự án mạo hiểm, tìm kiếm nơi trú ẩn an toàn trong tiền mặt.

Cuộc khủng hoảng hữu cơ

Chủ nghĩa tư bản không phải là một Yo-yo. Nền kinh tế không thể đơn giản đi xuống và sau đó tăng lên. Có những lúc khi sự suy thoái như vậy xảy ra, đại diện cho nhịp thở nhịp nhàng của ‘chu kỳ kinh doanh’ của nhà tư bản. Nhưng cuộc khủng hoảng này – đến từ sự suy thoái sâu sắc năm 2008 – rõ ràng không phải là một thời kỳ như vậy.

Thay vào đó, chúng ta đang ở trong một kỷ nguyên suy tàn của chủ nghĩa tư bản, thứ phải đối mặt là một cuộc khủng hoảng hữu cơ của chủ nghĩa tư bản: Trong đó hệ thống bị cuốn vào một vòng xoáy đi xuống luẩn quẩn; nơi việc làm giảm dẫn đến nhu cầu giảm – điều này dẫn đến đầu tư giảm, và do đó, việc làm tiếp tục giảm, và cứ thế tiếp tục…

Hơn nữa, không giống như sự sụp đổ 2008-09, cuộc khủng hoảng ngày nay thực sự là một cuộc khủng hoảng toàn cầu. Trước đó, như Martin Wolf giải thích ngắn gọn trong FT, Trung Quốc đã có thể ghi nhận mức tăng trưởng kỷ lục trên cơ sở thực hiện một chương trình khổng lồ về chi tiêu Keynes. Điều này, đến lượt, đã nâng đỡ nền kinh tế của các nhà xuất khẩu hàng hóa lớn – như Brazil và Nam Phi – cũng như của các nhà sản xuất dầu mỏ.

Nhưng giờ đây, như hệ quả, Trung Quốc đang chìm trong nợ nần. Giống như các đối tác của họ ở khắp mọi nơi, các nhà lãnh đạo ở Bắc Kinh đã cạn đạn dược để chống lại cuộc khủng hoảng này. Và ngay cả khi đã hết cách ly (hiện tại), nền kinh tế Trung Quốc vẫn phải đối mặt với một con đường chông gai phía trước. Sau tất cả, với phần còn lại của thế giới vẫn trong tình trạng đình trệ, có bất kỳ ai sẽ mua hàng xuất khẩu của Trung Quốc?

Đó cũng là vấn đề tương tự mà mọi quốc gia khác phải đối mặt ở chiều ngược lại. Ngay cả khi việc kinh doanh được nối lại, làm thế nào Mỹ hay Đức có thể hy vọng phục hồi trừ khi họ tìm được thị trường ở nơi khác cho hàng hóa của họ?

Dưới chủ nghĩa tư bản, chúng ta thấy, số phận của mỗi quốc gia đều được liên kết với nhau. Đúng như một trong những nhà lập quốc Hoa Kỳ, Benjamin Franklin đã tuyên bố chính xác: Tất cả chúng ta phải bị treo cổ cùng nhau, hoặc, không có gì chắc chắn hơn, tất cả chúng ta sẽ được treo cổ dù không cùng nhau.

Sự sụt giảm hiện tại, theo đó, không chỉ là một sự sớm nở tối tàn. Thay vào đó, nó đại diện cho một bước ngoặt cơ bản trong lịch sử thế giới; trong sự phát triển – và suy tàn – của chủ nghĩa tư bản. Sự thật phũ phàng này, nếu nó chưa xảy ra, sẽ sớm thôi tự mình bốc cháy trên đầu óc của những kẻ thậm chí là ngu si nhất của tầng lớp tư bản. Và đó là một thực tế cách mạng mà chúng ta, những người Marxist, cũng phải hoàn toàn nhận ra.

Lạm phát, giảm phát, hay hỗn loạn?

Trong nỗ lực của mình để cứu hệ thống, giai cấp các nhà tư bản đang vứt bỏ hàng thập kỷ – nay là hàng thế kỷ – giáo lý chính thống về thị trường tự do. Sự can thiệp của nhà nước là việc hàng ngày.

Trên khắp thế giới, các chính phủ đang trở thành “người cho vay, kẻ đi vay và cuối cùng lại là người chi tiêu”, để bảo vệ các ngân hàng và doanh nghiệp lớn, và thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế. Một lần nữa, có vẻ như chúng ta tất cả giờ đã là những người theo Keynes.

Nợ chính phủ đang phình to, khi các nhà hoạch định chính sách đã ném bồn rửa bát vào vấn đề (Một thành ngữ ám chỉ: đã thử mọi cách để giải quyết vấn đề). IMF dự đoán rằng tổng nợ công sẽ tăng thêm 6 nghìn tỷ đô la trong năm nay tại các nước tư bản tiên tiến – tăng từ 105% GDP lên 122%.

Nhưng những thời điểm tuyệt vọng lại kêu gọi các biện pháp tuyệt vọng. Và những người khác đang đề xuất những ý tưởng mà chỉ vài tháng trước sẽ được coi là đáng nguyền rủa. Trong số này là gợi ý rằng nợ chính phủ có thể được cấp trực tiếp bởi các ngân hàng trung ương.

Thông thường, nợ quốc gia được bán trên thị trường dưới dạng trái phiếu; và chính phủ cần tìm chủ nợ sẵn lòng. Nhưng trong những lúc cần thiết như vầy, họ sẵn sàng bỏ qua những kẻ trung gian và chụp lấy Fed, Ngân hàng Anh, v.v… để tự mình nới lỏng trái phiếu chính phủ. Nhưng làm thế nào để tiền được cấp, một câu hỏi đúng đắn? Nói đơn giản: bằng cách in tiền.

Điều này đã đặt ra những câu hỏi dễ hiểu về mối đe dọa của lạm phát. Sau tất cả, chính giai cấp tư sản đã không bao giờ bỏ lỡ cơ hội để chế giễu ông ba bị của Venezuela, nơi những nỗ lực tài trợ cho chi tiêu công thông qua việc tạo ra tiền mới đã dẫn đến lạm phát phi mã.

Đúng, tất cả mọi thứ đều bình đẳng, một lượng tiền mặt đổ vào nền kinh tế sẽ gây ra lạm phát. Như Marx đã giải thích, tiền cuối cùng là một đại diện cho giá trị – giá trị của hàng hóa đang lưu hành. Nếu có nhiều tiền đi theo cùng một lượng hàng hóa (hoặc ít hơn), thì sẽ có sự tăng giá chung, tức là lạm phát.

Nhưng ngay lúc này, như đã nhấn mạnh ở trên, rõ ràng là tất cả mọi thứ không công bằng. Các lực lượng đối kháng đang xoay chuyển – đáng chú ý nhất là sự sụt giảm lớn về nhu cầu đã xảy ra do sự đóng cửa toàn cầu. Nguồn cung có thể bị hạn chế, nhưng nhu cầu còn giảm nhanh hơn. Điều này hoạt động như một áp lực giảm giá lớn.

Giá dầu tiêu cực là biểu hiện cấp tính nhất của điều này. Nhưng ngoại trừ một số hàng hóa quan trọng (như thực phẩm), giá cả nói chung đang giảm, khi thị trường co lại và cạnh tranh ngày càng gay gắt.

Các ngành công nghiệp đan xen trên bảng được thiết lập đã sẵn sàng sụp đổ. Thất nghiệp hàng loạt sẽ đẩy nhanh cuộc đua xuống đáy về tiền lương và điều kiện sống. Do đó, một vòng xoáy đi xuống của trầm cảm đã xuất hiện. Do đó, nhiều đại biểu có tầm nhìn xa hơn của tầng lớp tư bản đã sợ hãi giảm phát trong dài hạn hơn là lạm phát.

Điều quan trọng cần ghi nhớ là trong thời đại ngày nay, cung tiền không được quyết định chủ yếu bởi các ngân hàng trung ương. Họ chỉ chịu trách nhiệm thiết lập nguồn cung ‘cơ sở’. Trên thực tế, phần lớn tiền trong nền kinh tế xuất hiện dưới dạng tín dụng, được tạo ra bởi các ngân hàng tư nhân để đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp và hộ gia đình đối với các khoản vay và thế chấp.

Nhưng với “cầu hiệu quả” – dưới hình thức đầu tư và tiêu dùng – giảm xuống, nhu cầu tín dụng cũng nhanh chóng giảm đi. Nói cách khác, tiền được tạo ra công khai bởi các ngân hàng trung ương là một nỗ lực vô ích để vượt qua sự sụp đổ về tiền do hệ thống ngân hàng tạo ra một cách riêng tư.

Sản xuất thừa

Nới lỏng định lượng (QE) liên quan đến một quá trình tương tự như việc mua trái phiếu mới được đề xuất bởi các ngân hàng trung ương. Nhưng thay vì các ngân hàng trung ương mua trực tiếp trái phiếu chính phủ, theo QE, họ tạo ra tiền để mua các tài sản đó từ các ngân hàng, do đó giải phóng nguồn vốn có thể được sử dụng để cho các doanh nghiệp vay trong nền kinh tế thực.

Đó là về lý thuyết. Trên thực tế, khoản tiền mặt QE bổ sung này chưa bao giờ đi vào nền kinh tế thực – do đó, nói chung, tình trạng giảm phát đã đi ngang qua trên toàn thế giới trong suốt thập kỷ qua.

Thay vào đó, các ngân hàng chỉ ngồi trên tiền thừa, sử dụng nó để tăng lợi nhuận. Và không có con đường đầu tư sinh lời ở bất cứ đâu, bong bóng tài sản đã bị thổi phồng và thị trường chứng khoán xôn xao, với sự đầu cơ và mua lại cổ phiếu đầy rẫy.

Thí nghiệm thất bại này chỉ được trình bày, như câu nói cũ: bạn có thể dẫn một con ngựa xuống nước, nhưng bạn không thể bắt nó uống nước. Chính phủ (thông qua các ngân hàng trung ương) có thể in tất cả tiền trên thế giới – nhưng họ không thể buộc các nhà tư bản đầu tư vào đó.

Chủ nghĩa tư bản là một hệ thống sản xuất vì lợi nhuận. Các nhà tư bản sẽ chỉ đầu tư nếu có lợi nhuận để làm như vậy. Và trong hơn một thập kỷ nay, nền kinh tế thế giới đã được đặc trưng chủ yếu bởi một loạt các mặt hàng, dự trữ tiền mặt của công ty nhàn rỗi và ‘năng lực dư thừa’.

Nói cách khác, đầu tư kinh doanh đã ở mức thấp trong lịch sử, không phải vì thiếu tiền (‘thanh khoản’), mà do cuộc khủng hoảng sản xuất thừa của hệ thống tư bản. Và khác xa với việc khuất phục điều này, đại dịch được thiết lập để làm trầm trọng thêm tất cả những căng thẳng hiện có.

Tuy nhiên, khi lệnh đóng cửa được nới lỏng, nguy cơ lạm phát ở một số khu vực nhất định có thể tăng cao. Ngay bây giờ, với các cửa hàng đóng cửa và ngành công nghiệp bị đình chỉ, tiền bị ném vào nền kinh tế không còn nơi nào để đi. Phần lớn sẽ được lưu lại cho tương lai, khi các doanh nghiệp mở cửa trở lại. Điều này có thể dẫn đến một sự đột biến trong chi tiêu tiếp theo.

Nhưng với việc sản xuất khởi động lại một cách rời rạc và không đồng đều, chuỗi cung ứng toàn cầu tan vỡ, và sự xuất hiện của chủ nghĩa bảo hộ, nhu cầu gia tăng này có thể chạm vào một bức tường cung bị hạn chế. Lạm phát trong một số lĩnh vực cũng có thể xảy ra.

Tương tự, nếu các chính phủ ở khắp mọi nơi theo đuổi chính sách thâm hụt tài chính và bành trướng vô giới hạn, thì điều này cuối cùng cũng sẽ dẫn đến lạm phát – và thậm chí siêu lạm phát – khi nhu cầu mở rộng một cách giả tạo với giới hạn của lực lượng sản xuất tư bản chủ nghĩa.

Không thể nói chính xác mọi thứ sẽ diễn ra như thế nào trong thực tế. Lý thuyết kinh tế Marxist không phải là quả cầu pha lê, mà là một phân tích biện chứng và duy vật về hệ thống năng động, phức tạp và mâu thuẫn đó là chủ nghĩa tư bản.

Những gì chúng ta có thể nói chắc chắn là bất kỳ dấu tích ổn định nào sẽ nhanh chóng bay hơi. Biến động và nhiễu loạn là ‘điều bình thường mới’ khi nói đến nền kinh tế thế giới. Các đợt lạm phát sẽ được xếp chồng lên trên một bức tranh chung về trầm cảm và giảm phát. Nét đặc trưng quan trọng hơn bất kỳ cái nào sẽ là sự hỗn loạn tư bản.

Không có bữa trưa miễn phí

Trong khi tất cả họ đều vui mừng ném tiền vào cuộc khủng hoảng trước mắt, thì các nhà tư bản nghiêm túc hơn cũng biết rằng không có thứ gì gọi là bữa trưa miễn phí. Các khoản nợ của chính phủ tích lũy bây giờ sẽ phải được trả lại trong tương lai không xa – và có lãi. Ai đó sẽ phải trả giá cho cuộc khủng hoảng này.

Trong một bài xã luận gần đây, The economist phác thảo các lựa chọn phải đối mặt với các chính phủ có đòn bẩy cao trên toàn thế giới. Tóm lại, tạp chí tự do này kết luận, các khoản nợ sẽ phải được xử lý theo một trong ba cách: thông qua thuế; thông qua lạm phát; hoặc thông qua vỡ nợ.

Ví dụ về Chiến tranh thế giới thứ hai được trích dẫn, khi nước Anh nổi lên với khoản nợ quốc gia tương đương với hơn 270% GDP. Trước đó, sự kết hợp của các chính sách lạm phát và thuế tăng đã được sử dụng để giảm nợ xuống dưới 50% GDP. Tăng trưởng chưa từng có cũng giúp ích, bằng cách giảm gánh nặng nợ so với quy mô của toàn bộ nền kinh tế.

Bài báo đề xuất triển khai một kho vũ khí kinh tế tương tự vào lúc này. Nhưng cũng như những người tự do luôn làm, các tác giả của tạp chí lảng tránh câu hỏi chính trị ở trung tâm của sự lựa chọn này: Ai trả tiền?

Không cái nào trong số ba nhánh đề nghị này là ‘trung lập’. Cho tới cùng, đó là một câu hỏi giai cấp phải trả lời. Thuế, ví dụ, không phải là con số trừu tượng. Chúng phải ráng vào giai cấp tư bản hoặc giai cấp công nhân. Nhưng cái trước ngăn cản đầu tư kinh doanh; cái sau ngoạm vào tiêu dùng.

Tương tự với vỡ nợ. Rốt cuộc, ai sẽ là người sở hữu khoản nợ không thể trả được? Một lần nữa, chính các nhà tư bản, những người nắm giữ nợ chính phủ như một phần của rổ đầu tư. Hoặc đó là công nhân, dưới hình thức lương hưu và các khoản tiết kiệm trọn đời khác.

Tương tự như lạm phát, mà theo sự thừa nhận của chính Chuyên gia của tờ Kinh tế, “sẽ mang lại sự phân phối thất thường tài sản với những bất lợi của người nghèo”.

Đồng thời, chúng ta phải nhấn mạnh rằng triển vọng kinh tế sau đại dịch không phải là một trong những tăng trưởng. Sẽ không có sự lặp lại của sự bùng nổ sau chiến tranh, phát sinh từ sự kết hợp chưa từng có của các yếu tố sẽ không được lặp lại ngày hôm nay.

Thật vậy, các khoản nợ – công và tư – đã ở mức khó chấp nhận ngay cả trước cuộc khủng hoảng covid-19. Khi các hộ gia đình, doanh nghiệp và chính phủ trả các khoản nợ tích lũy trong quá khứ, nó sẽ phá hủy nhu cầu trong tương lai.

Đổi lại, như đã thảo luận ở trên, nhu cầu chán nản đè nặng lên giá cả, dẫn đến giảm phát tiềm năng. Và nhu cầu tiêu dùng giảm cũng có nghĩa là tăng trưởng thiếu máu – nếu có chút nào. Và tất cả những hành động này để tăng giá trị thực – và gánh nặng – của nợ.

Đấu tranh giai cấp

Cái bóng lờ mờ của vũng nước xoáy này sẽ xuất hiện trên một cơn sóng thần tấn công vào tầng lớp lao động. Tự động hóa có khả năng gia tăng sau đại dịch, ví dụ, khi các doanh nghiệp tìm cách giảm sự phụ thuộc vào công nhân, tạo ra sự lo lắng về một “cuộc đua chống lại máy móc”.

Và cạnh tranh quốc tế giữa các công nhân sẽ tăng cường, khi thị trường lao động toàn cầu mở rộng nhờ vào sự gia tăng của công việc từ xa, hội nghị trực tuyến và các công nghệ truyền thông nơi làm việc mới khác.

Trong khi đó, nếu không có mức tăng lương tương đương người lao động sẽ thấy tiền lương thực sự giảm do hậu quả của bất kỳ lạm phát nào. Điều này sẽ dẫn đến một làn sóng các cuộc đình công và đấu tranh công nghiệp, khi các công nhân tìm cách nắm lại những gì họ đã mất.

Điều này – sự tăng cường của cuộc đấu tranh giai cấp – là viễn cảnh còn thiếu trong các đánh giá mơ hồ của các nhà bình luận tự do. Mặc dù đã mất liên lạc với thực tế, ngay cả các nhà báo của tờ Kinh tế cũng phải miễn cưỡng đưa kết luận rằng: “Dù cách này hay cách khác, các hóa đơn cuối cùng sẽ đến hạn. Khi chúng đến, có thể không có cách nào để giải quyết chúng.”

Xét tới cùng, xã hội về cơ bản được chia thành các giai cấp. Hoặc là giai cấp các nhà tư bản hoặc giai cấp công nhân sẽ phải trả giá cho cuộc khủng hoảng này. Và kết quả cuối cùng sẽ không được xác định bởi các phương trình kinh tế hoặc các bản thiết kế bởi tư duy, mà bằng một trận chiến giữa các lực lượng sống động.

Chúng tôi kêu gọi bạn tham gia cùng chúng tôi trong trận chiến này, về phía công nhân và thanh niên, để đấu tranh cho một tương lai xã hội chủ nghĩa.

Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận