Chủ nghĩa Marx với vấn đề dân tộc ( Phần I)

 

Lời tựa

 

Vấn đề dân tộc – theo nghĩa là sự áp bức với các quốc gia và dân tộc thiểu số – là đặc điểm tiêu biểu của chủ nghĩa tư bản kể từ khi ra đời cho tới nay và luôn chiếm một vị trí trung tâm trong lý thuyết Marxist. Đặc biệt trong các bài viết của mình Lenin đã đề cập đến vấn đề thiết yếu này rất chi tiết, nhờ đó mà chúng ta có được một nền tảng vững chắc để đối phó với vấn đề phức tạp và bùng nổ nhất này. Nói không ngoa rằng nếu không có sự đánh giá chính xác với vấn đề dân tộc những người Bolshevik sẽ không bao giờ thành công khi lên nắm quyền vào năm 1917. Chỉ có đặt mình lên hàng đầu của tất cả các tầng lớp xã hội bị áp bức thì giai cấp vô sản mới có thể đoàn kết quần chúng dưới ngọn cờ của chủ nghĩa xã hội, điều cần thiết để lật đổ sự cai trị của những kẻ áp bức.


 

Có hai rào cản cơ bản đối với sự tiến bộ của con người: Một mặt là quyền tư hữu đối với tư liệu sản xuất và ở mặt khác là quốc gia dân tộc. Nhưng trong khi nửa đầu của phương trình này là khá rõ ràng, nửa sau đã không nhận được sự chú ý đáng có. Ngày nay, trong kỷ nguyên suy tàn của chủ nghĩa đế quốc, khi những mâu thuẫn hiển nhiên của một hệ thống kinh tế – xã hội đang mục rữa trên chính đôi chân của mình đã đến giới hạn không thể chịu đựng được, thì khắp nơi vấn đề dân tộc lại một lần nữa ngẩng cao đầu, với những hệ quả bi thảm và đẫm máu nhất. Khác xa với nền hòa bình đã lùi vào dĩ vãng xa xăm trong sự phát triển của nhân loại, khác xa ảo tưởng vô vọng của những nhà cải cách, Bộ dạng xấu xa và độc hại của nó đe dọa kéo tất cả các quốc gia vào tình trạng man rợ. Giải quyết vấn đề này là một phần quan trọng giúp cho chiến thắng của chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn cầu.

 

Không một quốc gia nào – thậm chí không phải là quốc gia lớn nhất và hùng mạnh nhất – có thể cưỡng lại xu thế áp đảo của thị trường thế giới. Hiện tượng mà giai cấp tư sản mô tả là toàn cầu hóa, điều đã được Marx và Engels dự đoán từ 150 năm trước, hiện đang hoạt động như một phòng thí nghiệm. Kể từ Thế chiến thứ hai, và đặc biệt là trong 20 năm qua, đã có sự tăng cường to lớn của phân công lao động quốc tế và sự phát triển mạnh mẽ của thương mại thế giới, đến một mức độ mà ngay cả Marx và Engels cũng không thể mơ tới. Mạng lưới đan xen của nền kinh tế thế giới đã đạt một mức độ chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại. Đó là một sự phát triển tiến bộ nhất bởi vì nó có nghĩa là các điều kiện vật chất cho chủ nghĩa xã hội thế giới hiện đã được thiết lập.

 

Nền kinh tế thế giới nằm trong sự kiểm soát của 200 tập đoàn quốc tế lớn nhất. Sự tích tụ tư bản đã đạt tới quy mô đáng kinh ngạc. Mỗi ngày 1,3 nghìn tỷ đô la vượt biên giới trong các giao dịch quốc tế và 70% các giao dịch này diễn ra do các công ty đa quốc gia. Mỗi ngày trôi qua, các nhà độc quyền khổng lồ tham gia vào cuộc chiến sinh tử để đánh bại những gã khổng lồ khác. Những khoản tiền rất lớn đã được chi cho những hoạt động này, nó đang tập trung sức mạnh không thể tưởng tượng được vào tay của ngày càng ít công ty. Họ hành xử như những kẻ ăn thịt đồng loại tàn bạo và vô độ, nuốt chửng lẫn nhau vì mưu cầu lợi nhuận ngày một lớn hơn. Trong cuộc xâu xé điên cuồng này, giai cấp công nhân ở giữa luôn là kẻ chịu thiệt. Một vụ sáp nhập không báo trước theo sau là thông báo từ trụ sở chính với một làn sóng sa thải và đóng cửa mới, áp lực không ngừng lên người lao động để tăng tỷ suất lợi nhuận, giá trị cổ tức và lương cho quản lý.

 

Chính trong bối cảnh này mà cuốn sách của Lenin, Chủ nghĩa đế quốc – giai đoạn cao nhất của chủ nghĩa tư bản, có được một âm vang đầy hiện đại. Lenin giải thích rằng chủ nghĩa đế quốc là chủ nghĩa tư bản trong thời kỳ độc quyền và ủy thác lớn. Nhưng mức độ độc quyền trong thời của Lenin dường như chỉ là trò trẻ con so với tình hình hiện nay. Năm 1999, số lượng tiếp quản xuyên biên giới đạt một con số đáng kinh ngạc: 5.100. Hơn nữa, giá trị của các thỏa thuận đã tăng không dưới 47% so với năm 1998, lên mức cao kỷ lục 798 tỷ USD. Với số tiền đáng kinh ngạc như vậy, có thể giải quyết được hầu hết các vấn đề cấp bách như nghèo đói, mù chữ và bệnh tật trên thế giới. Nhưng đó chỉ là giả định vì cần sự tồn tại của một hệ thống sản xuất hợp lý, trong đó nhu cầu của nhiều người được ưu tiên hơn so với siêu lợi nhuận của một số ít. Sức mạnh to lớn của các công ty đa quốc gia khổng lồ này, ngày càng được hợp nhất với nhà nước tư bản, tạo ra một hiện tượng mà nhà xã hội học người Mỹ Wright-Mills gọi là “Tổ hợp công nghiệp quân sự”( Military Industrial Complex), hoàn toàn thống trị thế giới hơn bất cứ thời điểm nào trong lịch sử.

 

Ở đây chúng ta sẽ thấy một mâu thuẫn nổi bật. Trên cơ sở của toàn cầu hóa, lập luận được đưa ra bởi giai cấp tư sản và đặc biệt là các nhà biện hộ tiểu tư sản rằng vai trò quốc gia dân tộc trong thực tế đã không còn quan trọng nữa. Điều này không mới. Lập luận tương tự đã được Kautsky đưa ra trong giai đoạn Chiến tranh thế giới thứ nhất ( được gọi là lý thuyết về "chủ nghĩa siêu đế quốc"), khi ông lập luận rằng sự phát triển của chủ nghĩa tư bản độc quyền và chủ nghĩa đế quốc sẽ dần dần loại bỏ mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản. Sẽ không còn chiến tranh nữa vì sự phát triển của chủ nghĩa tư bản sẽ khiến cho quốc gia dân tộc trở nên không còn cần thuyết. Lý thuyết tương tự được đưa ra ngày hôm nay bởi các nhà lý thuyết xét lại như Eric Hobsbawm ở Anh. Cựu Stalinist này, người đã đi sang cánh hữu của Lao động, lập luận rằng quốc gia dân tộc chỉ là một giai đoạn nhất thời của lịch sử đã qua của nhân loại. Các nhà kinh tế tư sản khác cũng đã đưa ra những lập luận tương tự trong suốt lịch sử. Họ cố gắng xóa bỏ những mâu thuẫn vốn có trong hệ thống tư bản chỉ bằng cách phủ nhận sự tồn tại của chúng. Tuy nhiên, chính tại thời điểm này, khi thị trường thế giới đã trở thành thế lực thống trị toàn cầu, những đối kháng giữa các quốc gia ở khắp mọi nơi có được một đặc điểm ngày càng tàn bạo và ngay cả ở những nơi mà dường như vấn đề dân tộc đã được giải quyết lại tỏ ra đặc biệt gay gắt và độc hại.

 

Với sự phát triển của chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa tư bản độc quyền, hệ thống tư bản đã vượt qua giới hạn chật hẹp của tài sản tư nhân và quốc gia dân tộc, những thứ giờ đây đóng vai trò tương tự như như các hoàng thân và lãnh địa trong thời kỳ trước khi chủ nghĩa tư bản trỗi dậy. Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, Lenin đã viết:

 

"Chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn cao nhất của chủ nghĩa tư bản. Ở các nước đi đầu, tư bản đã vượt qua giới hạn của quốc gia dân tộc, đã thay thế cạnh tranh bằng độc quyền và tạo điều kiện khách quan cho thành tựu của chủ nghĩa xã hội". ( Lênin, Tuyển tập, Cách mạng xã hội chủ nghĩa vQuyền tự quyết dân tộc, Tháng 1-Tháng 2 năm 1916, tập. 22)

 

Bất cứ ai không hiểu được sự thật cơ bản này sẽ không có khả năng hiểu, không chỉ là vấn đề dân tộc mà là tất cả các biểu hiện quan trọng nhất của thời đại ngày nay.

 

Toàn bộ lịch sử một trăm năm qua là lịch sử của sự nổi loạn của các lực lượng sản xuất chống lại giới hạn chật hẹp của quốc gia dân tộc. Từ đó mà xuất hiện nền kinh tế thế giới, cùng với đó là khủng hoảng toàn cầu và chiến tranh thế giới. Do đó mà bức tranh do Giáo sư Hobsbawms vẽ ra về một thế giới trong đó mâu thuẫn dân tộc đang được xóa bỏ là một thứ phù phiếm. Đúng ra là ngược lại. Cùng với khủng hoảng toàn diện của chủ nghĩa tư bản, vấn đề dân tộc không còn giới hạn ở các nước thuộc địa cũ. Nó cũng đang bắt đầu ảnh hưởng đến các nước tư bản tiên tiến, thậm chí cả những nơi mà nó dường như đã được giải quyết. Ở Bỉ, một trong những quốc gia phát triển nhất châu Âu, cuộc xung đột giữa Walloons và Flemish mang đặc điểm tệ hại mà hậu quả có thể là sự chia rẽ ở Bỉ. Ở Cyprus, chúng ta có sự đối kháng dân tộc giữa người Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ, và mâu thuẫn rộng lớn hơn là giữa 2 quốc gia Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ. Gần đây, vấn đề dân tộc ở Balkan đã kéo châu Âu tới gần bờ vực chiến tranh.

 

Ở Mỹ là vấn đề phân biệt chủng tộc đối với người da đen và cả người gốc Tây Ban Nha. Ở Đức, Pháp và các nước khác, chúng ta thấy các cuộc tấn công do kỳ thị và phân biệt chủng tộc chống lại người nhập cư. Ở Liên Xô cũ, vấn đề dân tộc đã dẫn tới sự hỗn loạn đẫm máu với những cuộc chiến tranh và nội chiến ở một quốc gia khác. Ở Anh, nơi chủ nghĩa tư bản tồn tại lâu hơn bất cứ nơi nào khác, vấn đề dân tộc vẫn chưa được giải quyết triệt để, không chỉ ở Bắc Ireland, mà cả ở xứ Wales và Scotland, đặt dấu ấn nặng nề trong chương trình nghị sự. Ở Tây Ban Nha, chúng ta có vấn đề về Euskadi, Catalonia và Galicia. Đặc biệt nhất, hơn một trăm năm sau khi thống nhất Ý, Liên đoàn phương Bắc đang thúc đẩy yêu cầu phản động đòi chia rẽ nước Ý với lý do tự quyết cho miền Bắc ("Padania"). Kết luận không thể tránh khỏi là: Vấn đề dân tộc đã bị bỏ ngỏ vào lúc hiểm nghèo nhất. Nếu chúng ta muốn thành công trong việc thay đổi xã hội, điều bắt buộc là chúng ta phải có một vị trí cẩn thận, rõ ràng và đúng đắn về vấn đề này. Vì thế chúng tôi muốn gửi bài viết này tới công nhân và thanh niên, đến các cấp bậc và hàng ngũ trong các đảng Xã hội và Cộng sản, những người muốn hiểu các ý tưởng của chủ nghĩa Mác để đấu tranh để thay đổi xã hội. Để những điều này, chúng tôi dành công việc hiện tại. người muốn hiểu những ý tưởng của chủ nghĩa Mác để đấu tranh để thay đổi xã hội.

 

Phần thứ nhất: Câu hỏi quốc gia trong lịch sử

 

“Ở Tây âu thì kỷ nguyên của giai đoạn hình thành các quốc gia tư sản, nếu bỏ qua cuộc đấu tranh của Hà Lan để giành độc lập và số phận của quốc đảo Anh, đã bắt đầu với cuộc cách mạng vĩ đại ở Pháp, và về cơ bản đã hoàn thành khoảng một trăm năm sau này với sự hình thành của Đế quốc Đức.” (L. Trotsky, Lịch sử Cách mạng Nga , trang 889.)

 

Mặc dù hầu hết mọi người nghĩ về quốc gia dân tộc như một cái gì đó tự nhiên, và do đó bắt nguồn từ quá khứ xa xôi, nhưng ngoại trừ trong máu và tâm hồn của những người đàn ông và phụ nữ, thì thực tế, đó là một sáng tạo tương đối hiện đại, mà thực sự nói chỉ mới tồn tại được 200 năm. Ngoại lệ duy nhất là Hà Lan, nơi nổ ra cuộc cách mạng tư sản vào thế kỷ 16 dưới hình thức của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc chống lại Tây Ban Nha và Anh, bởi vì vị trí độc đáo của nó như một quốc đảo nơi sự phát triển tư bản diễn ra sớm hơn so với phần còn lại của châu Âu (từ cuối thế kỷ 14 trở đi). Trước thời kỳ này không có quốc gia, mà chỉ có các bộ lạc, thành bang và đế chế. Về mặt khoa học, việc gọi cái sau là "quốc gia" là không chính xác như thường thấy. Một nhà dân tộc chủ nghĩa xứ Wales thậm chí còn nhắc đến "dân tộc Wales” – đã tồn tại trước cả khi Roma xâm chiếm Anh! Nhưng đây là ảo tưởng. Xứ Wales ngày đó chỉ là các bộ lạc về cơ bản không khác mấy các bộ lạc khác sinh sống trên vùng đất được biết đến ngày nay là nước Anh. (đặc biệt là quốc gia cụ thể của họ) luôn tồn tại. Trong thực tế, nhà nước quốc gia là một thực thể phát triển trong lịch sử. Nó không phải luôn luôn tồn tại, và sẽ không luôn tồn tại trong tương lai. Đó là một đặc điểm nguy hiểm của các nhà văn dân tộc chủ nghĩa khi cố gắng tạo ra ấn tượng rằng “dân tộc” (đặc biệt là dân tộc cụ thể của họ) luôn tồn tại. Trong thực tế, quốc gia dân tộc là một thực thể phát triển cùng lịch sử. Nó không phải luôn luôn tồn tại, và sẽ không luôn tồn tại trong tương lai.

 

Thực sự, quốc gia dân tộc là một sản phẩm của chủ nghĩa tư bản. Nó được xác lập bởi đòi hỏi của giai cấp tư sản về một thị trường dân tộc. Nó đã phải phá vỡ những giới hạn địa phương với các khu vực địa lý nhỏ có thuế địa phương, phí cầu đường và hệ thống tiền tệ riêng biệt, phép đo và tính trọng lượng khác biệt. Điều này được minh họa chi tiết qua đoạn văn sau đây của Robert Heilbroner về chuyến hành trình của một thương gia người Đức vào khoảng năm 1550:

 

“Andreas Ryff, một thương nhân, với bộ râu và áo khoác lông thú, đang trở về nhà ở Baden, viết cho vợ rằng anh ta rằng mình đã ghé qua ba mươi khu chợ và gặp rắc rối với cái mấu yên ngựa. Nhưng thứ còn rắc rối hơn cho ông ta là những phiền toái về thời gian; khi du hành ông đã phải dừng lại cứ khoảng 10 dặm một lần để trả một số thuế quan; chỉ từ Basle tới Cologne ông đã phải trả ba mươi mốt thứ thuế.

 

Và đó không phải là tất cả. Mỗi cộng đồng mà ông ghé thăm lại có những loại tiền khác nhau, phép đo và tính trọng lượng khác nhau. Chỉ trong khu vực xung quanh Baden đã có 112 cách đo chiều dài khác nhau, 92 phép đo diện tích ngũ cốc khác nhau, 123 với chất lỏng, 63 với rượu và 80 đơn vị cân khác nhau.” (R. Heilbroner, Các nhà triết học thế giới, trang 22.)

 

Việc lật đổ sự cục bộ địa phương này là một bước tiến phi thường vào thời điểm đó. Việc hợp nhất các lực lượng sản xuất vào trong một quốc gia dân tộc là một sứ mệnh lịch sử vô cùng tiến bộ của giai cấp tư sản. Nền móng cho cuộc cách mạng này đã bắt đầu từ hậu kỳ Trung cổ, thời kỳ mà chế độ phong kiến đang suy tàn và giai cấp tư sản cùng các thành phố đang trỗi dậy để khẳng định quyền lực của mình. Các vị vua thời trung cổ cần tiền cho các cuộc chiến của họ và buộc phải dựa vào tầng lớp thương nhân và chủ ngân hàng đang lên như Fuggers và Medicis. Nhưng thời điểm cho nền kinh tế thị trường vẫn chưa tới. Những gì tồn tại chỉ là một hình thức phôi thai của chủ nghĩa tư bản, tiêu biểu bởi sản xuất quy mô nhỏ và thị trường địa phương. Người ta chưa thể nói tới một thị trường dân tộc, hay quốc gia dân tộc thực sự. Thật ra những nét phác thảo của một số quốc gia châu Âu hiện đại đã có mặt nhưng những yếu tố này còn chưa được phát triển. Mặc dù nước Pháp dần thành hình như kết quả của cuộc chiến trăm năm với Anh, những cuộc đấu tranh này mang hình thức phong kiến ​​và giữa các triều đại, thay vì là một dân tộc thực sự. Những người lính trong trận chiến chiến đấu vì lòng trung thành với các lãnh chúa địa phương hơn là vua Pháp, và mặc dù có sự tồn tại của một lãnh thổ và ngôn ngữ chung, họ vẫn tự coi mình là Bretons, Burgundian và Gascognes chứ không phải là người Pháp.

 

Chỉ dần dần, trong đau đớn kéo dài vài thế kỷ, một ý thức dân tộc mới thực sự nảy sinh. Quá trình này diễn ra song song với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, nền kinh tế tiền tệ và sự xuất hiện dần dần của thị trường dân tộc, tiêu biểu là buôn bán len ở Anh trong thời trung cổ. Sự suy đồi của chế độ phong kiến ​​và sự trỗi dậy của các chế độ quân chủ tuyệt đối, vì mục đích riêng của họ, đã khuyến khích giai cấp tư sản và thương mại, đẩy nhanh hơn quá trình. Như Robert Heilbroner đã nói:

 

"Đầu tiên là sự xuất hiện dần dần của các đơn vị chính trị quốc gia ở châu Âu. Dưới những trận chiến của nông dân và các cuộc chinh phạt của các vị vua, sự tồn tại biệt lập của chế độ phong kiến ​​ban đầu đã nhường chỗ cho các chế độ quân chủ tập trung. Cùng với đó là sự bảo trợ của hoàng gia cho các ngành công nghiệp được ưa chuộng, ví dụ như dệt thảm lớn ở Pháp, và sự phát triển của các hạm đội và quân đội đi cùng với tất cả các ngành công nghiệp vệ tinh cần thiết cho chúng. Những phép tắc và quy định nhiều vô tận áp đặt lên Andreas Ryff và các thương nhân lữ hành thế kỷ thứ mười sáu đã phải nhường chỗ cho bộ luật quốc gia, các phép đo phổ biến và ít nhiều là tiền tệ tiêu chuẩn. " ( Nguồn trên, Trang 34.)

 

 

Do đó mà vấn đề dân tộc nhìn từ quan điểm lịch sử thuộc về thời kỳ cách mạng dân chủ tư sản. Và nói cho đúng thì câu hỏi dân tộc vốn không phải là một phần của chương trình xã hội chủ nghĩa mà lẽ ra đã phải được giải quyết bởi giai cấp tư sản trong cuộc đấu tranh chống lại chế độ phong kiến. Chính giai cấp tư sản đã tạo lên quốc gia dân tộc ngay từ đầu. Sự thiết lập quốc gia dân tộc trong những ngày ấy là cách mạng và một sự tiến bộ vượt bậc. Và nó đã không đạt được một cách hòa bình mà không đấu tranh. Quốc gia châu Âu thực sự đầu tiên là Hà Lan, được thành lập vào thế kỷ 16 như kết quả của một cuộc cách mạng tư sản diễn ra dưới hình thức của một cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc chống lại đế quốc Tây Ban Nha. Ở Mỹ, nó diễn ra trên cơ sở của một cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc vào thế kỷ 18 và được củng cố thông qua một cuộc nội chiến đẫm máu vào những năm 1860. Ở Ý, nó cũng đã đạt được thông qua một cuộc chiến giành độc lập dân tộc. Việc thống nhất nước Đức, một nhiệm vụ tiến bộ vào thời điểm đó đã Gunker Bismarck thực hiện bằng những phương tiện phản động: chiến tranh cùng với chính sách "máu và sắt".

 

     Cuộc Cách mạng Pháp

 

Việc kiến lập các quốc gia châu Âu hiện đại (ngoại trừ Hà Lan và Anh) đã được bắt đầu từ cuộc cách mạng Pháp. Trước đó, khái niệm quốc gia dân tộc giống hệt với vương quyền. Quốc gia là tài sản của kẻ cầm quyền. Sự thiết lập pháp lý cổ xưa này, được kế thừa trực tiếp từ chế độ phong kiến, ngay lập tức xung đột với hoàn cảnh mới xuất phát từ sự trỗi dậy của giai cấp tư sản. Để chinh phục quyền lực, giai cấp tư sản có nghĩa vụ phải đặt mình lên phía trước với tư cách là người đại diện của nhân dân, tức là Dân tộc. Như Robespierre đã nói:

 

"Ở các nhà nước quý tộc, từ patrie [dân tộc] không có nghĩa gì khác là các gia đình quý tộc đã nắm giữ chủ quyền. Chỉ theo chế độ dân chủ, nhà nước mới thực sự là patrie của tất cả các cá nhân đã sáng tạo lên nó." (Trích dẫn trong EH Carr, Cuộc cách mạng Bolshevik , tập. 1, tr. 414.)

 

Nền cộng hòa là một và không thể bị chia cắt. Hình ảnh: Miền công cộng.

 

Nguyên tắc đầu tiên của cách mạng Pháp là sự tập trung không khoan nhượng. Đây là điều kiện tiên quyết cho sự thành công của nó trong cuộc đấu tranh sinh tử chống lại chế độ cũ được cả châu Âu hậu thuẫn. Dưới biểu ngữ "Nền cộng hòa là một và không thể bị chia cắt", cuộc cách mạng đã lần đầu tiên thống nhất nước Pháp thành một quốc gia dân tộc, quét sạch tất cả các chủ nghĩa địa phương và sự ly khai từ Bretons, Normans tới Provençals. Hoặc là thế hoặc là sự tan rã và cái chết cho chính cuộc cách mạng. Cuộc chiến đẫm máu ở Vendée cũng là cuộc chiến chống lại chủ nghĩa ly khai và phản động phong kiến. Sự lật đổ nhà Bourbons đã tạo động lực mạnh mẽ cho tinh thần dân tộc trên toàn châu Âu. Trong giai đoạn đầu tiên, tấm gương về một dân tộc cách mạng đã thành công trong việc lật đổ trật tự quân chủ phong kiến ​​cũ nát trở thành nguồn cảm hứng và điểm tựa cho các lực lượng cách mạng và tiến bộ ở khắp mọi nơi. Các cường quốc châu Âu đoàn kết dưới sự lãnh đạo của nước Anh và Nga hoàng nhằm đè bẹp cuộc cách mạng, buộc quân đội cách mạng của nước cộng hòa Pháp phải tấn công chống lại. Bằng một chiến công phi thường, các lực lượng cách mạng đã thành công trong việc đẩy lùi các lực lượng phản động trên mọi mặt trận, qua đó tiết lộ trước thế giới sức mạnh đáng kinh ngạc của một dân tộc cách mạng và sự vũ trang toàn quốc.

 

Khắp mọi nơi quân đội cách mạng mang tới tinh thần nổi dậy và chắc chắn tại những vùng lãnh thổ mà nó kiểm soát thông điệp cách mạng đã được truyền tới. Trong cao trào của cuộc cách mạng, quân đội của Công ước Pháp đã xuất hiện trước các dân tộc châu Âu với tư cách như là những người giải phóng. Để thành công trong cuộc đấu tranh vĩ đại chống lại trật tự cũ, họ buộc phải kêu gọi quần chúng thực hiện những biến đổi cách mạng tương tự như những gì đã diễn ra ở Pháp. Đây là một cuộc chiến tranh cách mạng trước đây chưa từng có. Chế độ nô lệ đã bị bãi bỏ ở các thuộc địa của Pháp. Thông điệp cách mạng của Tuyên ngôn về quyền của con người vang lên ở khắp mọi nơi như lời cáo chung cho sự áp bức phong kiến ​​và quân chủ. Như David Thompson đã chỉ ra:

 

“Họ [người Pháp] được hỗ trợ, thực sự, bởi những người ủng hộ bản địa, và mặt tàn phá trong công việc của họ thường được hoàn toàn chào đón. Chỉ đến khi dân chúng thấy các bậc thầy người Pháp không khác là mấy những kẻ cai trị cũ của họ, họ đã sốt sắng với những ý tưởng về sự tự cai trị. Ý tưởng rằng "quyền tối cao của nhân dân" sẽ dẫn tới độc lập dân tộc là kết quả gián tiếp từ sự chiếm đóng của Pháp, ý nghĩa ban đầu của nó, việc bãi bỏ các đặc quyền và mở rộng quyền phổ quát, dẫn tới sự hợp nhất vào ý nghĩa mới này như là hệ quả của cuộc chinh phục. Các nhà cách mạng Pháp có ý định truyền bá chủ nghĩa tự do nhưng một cách tình cờ lại tạo ra chủ nghĩa dân tộc.” ( David Thompson, Châu Âu sau Napoleon , trang 50)

 

Sự kiệt quệ và suy tàn của cách mạng Pháp đã tạo nên nền độc tài của Napoléon Bonaparte, cũng giống như sự suy thoái của nhà nước công nhân Nga do bị cô lập mà cuối cùng kết thúc bởi chế độ độc tài vô sản Bonapartist của Stalin. Thông điệp dân chủ cách mạng trước đó đã bị vặn vẹo và biến dạng thành tham vọng về triều đại và đế quốc của Napoléon, thứ đã giáng đòn chí tử cho nước Pháp. Tuy nhiên, ngay cả dưới thời Napoléon, mặc dù ở dạng méo mó, một số lợi ích của cách mạng Pháp vẫn được duy trì và lan rộng khắp các lãnh thổ châu Âu do Pháp chiếm đóng, với hệ quả cách mạng, đặc biệt là ở Đức và Ý:

 

“Thành tựu hủy diệt nhất của nó lại là một trong những thứ lâu bền nhất. Napoléon đã mở rộng và duy trì những tác động của cách mạng Pháp bằng cách tiêu diệt chế độ phong kiến ​​ở các vùng nước thấp, phần lớn nước Đức và Ý. Chế độ phong kiến ​​như một hệ thống pháp lý, trong đó quý tộc có quyền sinh sát với nông dân, đã chấm dứt; chế độ phong kiến ​​như một hệ thống kinh tế trong đó nông dân phải trả thuế phong kiến cho quý tộc, đã chấm dứt, mặc dù thường thường lại trở thành sự đền bù và các khoản bồi thường. Quyền lực của Giáo hội không thể cản trở việc tái tổ chức này. Tầng lớp trung lưu và nông dân trở thành, giống như quý tộc, chủ thể của nhà nước, tất cả đều phải chịu thuế. Hệ thống thu và đánh thuế được thực hiện công bằng và hiệu quả hơn. Các phường hội cũ và đầu sỏ thị trấn bị bãi bỏ; hàng rào thuế quan nội bộ đã được gỡ bỏ. Sự bình đẳng hơn ở khắp mọi nơi, trong ý nghĩa là sự nghiệp mở rộng cho người có tài, là sự khởi đầu. Một cơn gió hiện đại hóa thổi qua châu Âu sau các cuộc chinh phạt của Napoléon. Những nỗ lực mạnh mẽ của ông nhằm biến Tây u thành một khối lãnh thổ bị chiếm đóng hoặc các vùng lãnh thổ vệ tinh đã thành công, ít nhất, trong việc làm cho nó thoát khỏi các khu vực pháp lý và đặc quyền cổ xưa, các khu vực lãnh thổ lạc hậu. Hầu hết những gì mà ông đã quét đi không thể phục hồi lại nữa.” ( Nguồn trên, Trang 67.)

 

Nhưng sự cai trị của Napoléon không phải là một phước lành trọn vẹn. Để tránh áp thuế nặng nề tại nhà, Bonaparte đã áp đặt nặng nề lên các vùng lãnh thổ bị chinh phục. Và mặc cho những tiến bộ xã hội, sự cai trị của Pháp vẫn là sự cai trị của nước ngoài. Như lời nhận xét khôn ngoan của Robespierre, không ai thích các nhà truyền giáo với lưỡi lê. Cuộc xâm lược của Pháp chắc chắn đã làm dậy lên sự đối nghịch với nó trong hình thức của chiến tranh giải phóng dân tộc mà cuối cùng làm suy yếu những chiến thắng trước đó. Thất bại của Napoleon trong chốn hoang tàn lạnh giá của nước Nga và sự hủy diệt quân đội Pháp là tín hiệu cho một làn sóng nổi dậy của các quốc gia chống lại Pháp. Ở Phổ, cả dân tộc trỗi dậy và buộc Fredrick William III tham chiến chống lại Napoléon. Thoát khỏi sự hỗn loạn đẫm máu của chiến tranh Napoléon và sau sự phân chia của kẻ chiến thắng hầu hết các quốc gia hiện đại của châu Âu mà chúng ta biết tới ngày nay đã được khai sinh.

 

     Câu hỏi quốc gia sau năm 1848

 

Năm 1848 là một bước ngoặt cho vấn đề dân tộc ở châu Âu. Giữa ngọn lửa của các cuộc cách mạng, những khát vọng của các dân tộc bị áp bức như Đức, Séc, Ba Lan, Ý và Magyar ( Hungary) được thúc đẩy về phía trước. Nếu cuộc cách mạng thành công, nó sẽ mở ra giải pháp cho vấn đề dân tộc ở Đức và cả những nơi khác bằng những phương tiện dân chủ nhất. Nhưng, như Marx và Engels đã giải thích, cuộc cách mạng năm 1848 đã bị phản bội bởi giai cấp tư sản phản cách mạng. Sự thất bại của cuộc cách mạng có nghĩa là vấn đề dân tộc phải được giải quyết bằng các biện pháp khác. Thật tình cờ một trong những nguyên nhân của sự thất bại chính là sự thao túng vấn đề quốc gia (ví dụ, ở Séc) dẫn tới kết thúc phản động.

 

Ở Đức, vấn đề dân tộc có thể được diễn đạt bằng một từ: thống nhất. Sau thất bại của cuộc cách mạng năm 1848, đất nước vẫn bị chia cắt thành một loạt các tiểu bang và công quốc nhỏ. Đây là một trở ngại phải vượt qua vì sự phát triển tự do của chủ nghĩa tư bản ở Đức và do đó mà cả giai cấp công nhân. Thống nhất vì thế là một nhu cầu tiến bộ. Nhưng câu hỏi là ai sẽ đoàn kết nước Đức và bằng phương tiện nào có tầm trọng yếu. Marx đã hy vọng rằng nhiệm vụ thống nhất sẽ thực hiện được từ bên dưới – bởi giai cấp công nhân và bằng các biện pháp cách mạng. Nhưng điều này đã không xảy ra. Vì giai cấp vô sản đã không giải quyết được vấn đề này bằng các biện pháp cách mạng vào năm 1848, nó đã được giải quyết bằng các biện pháp phản động của nhà bảo thủ người Phổ Junker Bismarck.

 

Phương pháp chính để đạt được kết thúc này là thông qua chiến tranh. Năm 1864, Áo và Phổ liên kết với nhau để đánh bại Đan Mạch. Đan Mạch mất tỉnh Schleswig-Holstein, và sau một cuộc tranh giành giữa Áo và Phổ, nó đã được hợp nhất vào Đức năm 1865. Sau khi vận động để giữ Pháp ra khỏi cuộc xung đột, Bismarck đã thiết lập liên minh với Ý để chống lại Áo. Khi Áo bị đánh bại trong trận chiến Königgrätz vào tháng 7 năm 1866, sự thống trị của người Phổ ở Đức đã được bảo đảm. Bằng hành động này, nước Đức đã được thống nhất bằng các cách thức phản động, thông qua đại biểu của chủ nghĩa quân phiệt Phổ. Nó cung cấp một vị trí mạnh mẽ cho chủ nghĩa quân phiệt Phổ và chế độ Bonapartist của Bismarck, và gieo mầm cho các cuộc chiến mới ở châu Âu. Do vậy mà cách thức giải quyết vấn đề quốc gia, bởi giai cấp nào và vì lợi ích của ai, không phải là vấn đề không quan trọng đối với giai cấp công nhân. Chỉ điều này thôi cũng đủ để giải thích tại sao không thể chấp nhận rằng chúng ta chỉ nên đóng vai trò là kẻ cổ vũ cho những người theo chủ nghĩa dân tộc tư sản và tiểu tư sản ngay cả khi họ đang thực hiện một nhiệm vụ tiến bộ khách quan. Tại mọi thời điểm, quan điểm giai cấp phải được duy trì.

 

Về mặt khách quan, sự thống nhất của nước Đức dĩ nhiên là một sự phát triển tiến bộ, điều mà Marx và Engels ủng hộ. Nhưng từ điều này không thể suy ra rằng những nhà xã hội chủ nghĩa Đức nên ủng hộ Bismarck. Marx ghét cay ghét đắng những ý tưởng như vậy. Ông luôn chống lại sự phản động của Bismarck, nhưng sau này khi nước Đức thống nhất thành công, Marx và Engels phải miễn cưỡng ủng hộ nó như một bước tiến, bởi nó sẽ tạo điều kiện cho sự thống nhất của giai cấp vô sản Đức. Do đó, Engels đã viết cho Marx vào ngày 25 tháng 7 năm 1866:

 
“Điều này có mặt tốt của nó là nó đơn giản hóa tình hình; nó làm cho một cuộc cách mạng dễ dàng hơn bằng cách loại bỏ những cuộc cãi lộn giữa các thủ đô nhỏ và trong mọi trường hợp sẽ thúc đẩy sự phát triển… Toàn bộ các tiểu bang sẽ bị cuốn vào phong trào, những ảnh hưởng cục bộ địa phương tồi tệ nhất sẽ chấm dứt và các đảng sẽ thực sự trở thành dân tộc thay vì chỉ đơn thuần địa phương…”

 

“Theo ý tôi, do đó mà tất cả những gì chúng ta có thể làm chỉ đơn giản là chấp nhận sự thật, mà không cần biện minh, và sử dụng, trong chừng mực có thể, các cơ sở lớn hơn cho tổ chức quốc gia và thống nhất giai cấp vô sản Đức lúc chính họ đã sẵn sàng.”

 

     Nước Ý thống nhất

 

Một tình huống tương tự đã tồn tại ở Ý. Vào cuối năm 1850, mặc dù có nhiều nỗ lực để đạt được sự thống nhất, nước Ý vẫn chia rẽ và chịu khuất phục trong vô vọng trước nước Áo, chịu bị thôn tính các vùng lãnh thổ phía Bắc. Ngoài ra, một số quốc gia nhỏ hơn, bao gồm Vương quốc Bourbon của hai Sicilia ( Nam Ý và Sicily) đã được bảo vệ chống lại cách mạng bởi quân đội Áo luôn sẵn sàng can thiệp. Các quốc gia Giáo hoàng ở Trung Ý nằm dưới sự "bảo hộ" của Pháp. Chỉ có vương quốc nhỏ Sardinia chiếm giữ Savoy-Piedmont là không có sự thống trị của Áo. Dưới sự lãnh đạo của nhà ngoại giao và chính khách tài năng Camillo Benso, bá tước xứ Cavour, triều đại cầm quyền bảo thủ dần dần mở rộng thế lực và lãnh thổ, trục xuất người Áo hết từ khu vực này đến khu vực khác.

 

Bên cạnh phe đối lập bảo thủ trong triều đình của người Piemonte là chống lại Áo, còn có một phong trào dân tộc cực đoan và cách mạng, bao gồm một lực lượng không đồng nhất của những nhà cộng hòa, dân chủ và xã hội chủ nghĩa. Các lực lượng này đã có mặt ở mọi tiểu bang của Ý cũng như lưu vong ở nước ngoài. Đại diện rõ ràng nhất của xu hướng này là Giuseppe Mazzini, người có những ý tưởng mơ hồ và không rõ ràng, nó phản ánh chính bản chất của phong trào mà anh ta đại diện. Ngược lại, bá tước xứ Cavour, người đứng đầu nhà nước độc lập của vùng Piemonte ở miền Bắc nước Ý, là một kẻ thao túng tinh ranh và bất lương. Trong một mưu đồ ngoại giao điển hình, trước tiên, ông chấp nhận tham gia cùng Anh và Pháp trong cuộc viễn chinh vào Crimea của họ chống lại Nga vào năm 1855. Sau đó, bí mật hứa hẹn với hoàng đế Pháp, Napoleon III về sự nhượng bộ lãnh thổ vùng Nice và Savoy, nhờ vậy mà ông có được một hiệp ước tương trợ với người Pháp trong trường hợp có chiến sự với Áo. Chiến tranh nổ ra vào năm 1859 và là điểm khởi đầu cho sự thống nhất nước Ý. Nổi dậy diễn ra ở tất cả các công quốc Ý và các quốc gia của Giáo hoàng. Cùng với người Pháp, quân đội Piemonte đã giành chiến thắng quyết định trước Áo tại Solferino. Sự thống nhất nước Ý đã trong tầm tay, nhưng điều này không tương đồng với lợi ích của Louis Bonaparte, người đã kịp thời ký một hiệp ước đình chiến với quân đội Áo và đang rút lui, do đó mà bỏ lại người Piemonte và các nhà cách mạng cho số phận của chính họ.

 

Garibaldi và đạo quân sơmi đỏ tiến vào giải phóng Napoli. Hình ảnh: Miền công cộng.

 

Sau cùng, cuộc chiến giải phóng nước Ý đã được cứu bởi cuộc khởi nghĩa ở Sicily, nơi chào đón cuộc đổ bộ của lực lượng viễn chinh của Garibaldi gồm 1.000 quân tình nguyện sơmi đỏ. Sau khi giành chiến thắng trong trận chiến với Sicily, lực lượng nổi dậy của Garibaldi đã xâm chiếm miền Nam nước Ý và ca khúc khải hoàn khi tiến vào thành phố Naples. Sự thống nhất của nước Ý đã được mang lại bằng các phương tiện cách mạng từ bên dưới, nhưng trái cây đã được thu hoạch ở nơi khác. Bậc thầy mưu mô của Cavour đã thuyết phục London và Paris rằng sẽ tốt hơn nếu chấp nhận sự cai trị của một Piemonte bảo thủ trong một nước Ý thống nhất còn hơn là chờ cho toàn bộ Ý rơi vào tay các nhà cách mạng và cộng hòa. Quân đội của triều đình Piemonte phản động đã hành quân vào Napoli mà không bị ngăn cản. Garibaldi, thay vì chiến đấu với họ, đã mở cổng và chào mừng Quốc vương của Piemonte, Victor Emmanuel vào ngày 26 tháng 10, ca ngợi ông là "Vua của nước Ý". Do vậy nhân dân Ý đã chỉ giành được một chiến thắng nửa vời thay vì chiến thắng hoàn toàn trước trật tự cũ dù đã đánh đổi bằng chính máu của mình.

 

Thay vì nền cộng hòa, nước Ý có một chế độ quân chủ lập hiến. Thay vì nền dân chủ, nó có một quyền công dân rất hạn chế loại trừ tới 98% người dân khỏi việc bỏ phiếu. Giáo hoàng được phép tiếp tục sự cai trị của mình tại các quốc gia Giáo hoàng (một sự nhượng bộ đối với Louis Bonaparte). Tuy nhiên, bất chấp điều này, việc thống nhất nước Ý là một bước tiến khổng lồ. Toàn bộ Ý đã thống nhất, ngoại trừ Venice còn nằm dưới sự kiểm soát của Áo và các quốc gia Giáo hoàng. Năm 1866, Ý tham gia cùng Phổ trong cuộc chiến chống Áo và nhận được Venice làm phần thưởng. Cuối cùng, sau thất bại của Pháp trong cuộc chiến tranh Pháp-Phổ (1871), quân đội Pháp đã rút khỏi Rome. Sự tiếp quản của quân đội Ý với thành phố đã đánh dấu cho chiến thắng trọn vẹn của sự thống nhất nước Ý.

 

Đến nửa sau thế kỷ 19 vấn đề dân tộc ở Tây u phần lớn đã được giải quyết. Và với sự thống nhất ở Đức và Ý, sau năm 1871, vấn đề dân tộc ở châu Âu dường như chỉ còn dang dở ở Đông u và, theo một hướng đặc biệt bùng nổ là ở Balkan, nơi nó quan hệ chặt chẽ với tham vọng về lãnh thổ và sự cạnh tranh ảnh hưởng của các nước Nga, Thổ Nhĩ Kỳ, Áo – Hung và Đức, một thực tế là chính nó đã dẫn đến chiến tranh thế giới thứ nhất. Trong giai đoạn đầu tiên, khoảng 1789 đến 1871, vấn đề dân tộc vẫn đóng một vai trò tương đối tiến bộ ở Tây u. Ngay cả sự thống nhất nước Đức dưới chế độ phản động của Junker Bismarck cũng được coi là một sự phát triển tiến bộ với Marx và Engels, như chúng ta đã thấy. Nhưng đến nửa sau thế kỷ 19, sự phát triển của lực lượng sản xuất dưới chế độ tư bản đã bắt đầu vượt xa những hạn chế hẹp của quốc gia dân tộc. Điều này đã được thể hiện trong sự phát triển của chủ nghĩa đế quốc và xu hướng không thể cưỡng lại được của cuộc chiến giữa các cường quốc. Các cuộc chiến Balkan năm 1912-13 đánh dấu sự hình thành đầy đủ các quốc gia Đông Nam u. Chiến tranh thế giới thứ nhất và Hiệp ước Versailles (được tổ chức một cách tình cờ là dưới khẩu hiệu "quyền tự quyết của các dân tộc") đã hoàn thành nốt công việc bằng cách phá hủy đế chế Áo-Hung và trao độc lập cho Ba Lan.

 

(Còn tiếp)

Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận