Tác phẩm nhà nước và cách mạng của Lenin

Nhà nước và cách mạng của Lenin

Ralph Miliband


Marx từng khẳng định cần phải “đập tan” nhà nước tư sản. Nhưng điều đó có nghĩa gì trong thực tiễn? Nếu mục tiêu của chúng ta là một chủ nghĩa xã hội dân chủ, phi quan liêu, thì chúng ta nên hướng tới kiểu nhà nước như thế nào?

Những ai đi tìm câu trả lời thường tìm đến State and Revolution (Nhà nước và Cách mạng) của Lenin, nơi nhà cách mạng lừng danh tự tin nói về việc biến “một nhà nước của bọn quan liêu” thành “một nhà nước của những người công nhân vũ trang.”

Trong bài tiểu luận dưới đây, Ralph Miliband, nhà Marxist người Anh huyền thoại, đưa ra một đánh giá phê phán về tập sách của Lenin và giải thích vì sao “việc thực thi quyền lực xã hội chủ nghĩa vẫn là gót chân Achilles của chủ nghĩa Marx.” Lần đầu xuất bản năm 1970, bài tiểu luận này đến nay vẫn là cách đọc sắc bén nhất về State and Revolution.


Ralph Miliband là nhà xã hội học Marxist nổi bật và là tác giả của nhiều cuốn sách về chủ nghĩa xã hội và chính trị, bao gồm Parliamentary Socialism (Chủ nghĩa xã hội nghị viện) và The State in Capitalist Society (Nhà nước trong xã hội tư bản).


Nhà nước và Cách mạng được coi là một trong những tác phẩm quan trọng nhất của Lenin. Nó hướng đến những câu hỏi có tầm quan trọng tối đa đối với lý thuyết và thực tiễn xã hội chủ nghĩa, và không câu hỏi nào trong số đó mất đi sự liên quan tới tình hình ngày nay, thậm chí còn ngược lại. Và, như một sự trình bày về lý thuyết Marxist về nhà nước, cả trước và nhất là sau khi giành chính quyền, tác phẩm này (vì do Lênin viết) đã được nhiều thế hệ những người xã hội chủ nghĩa xem là có uy tín đặc biệt. Điều đó chưa bao giờ đúng hơn trong những năm gần đây, khi tinh thần và nội dung của nó có thể dễ dàng được viện dẫn để phê phán thực tiễn siêu quan liêu của các chế độ kiểu Nga, cũng như các đảng Cộng sản chính thức. Tóm lại, vì những lý do nội tại và hoàn cảnh, đây thực sự là một trong những “kinh sách” của tư tưởng Marxist.

Tuy nhiên, khái niệm “kinh sách” lại xa lạ với tinh thần của chủ nghĩa Marx, hoặc ít nhất là nên như vậy. Đó chính là lý do ta nên phân tích tác phẩm Nhà nước và Cách mạng dưới góc nhìn phê phán. Nhưng cũng có một lý do khác cụ thể hơn để tiến hành phân tích như vậy. Lý do này nằm ở sự thật là tác phẩm này thường được coi là văn bản cung cấp một giải pháp lý thuyết và thực tiễn cho vấn đề cực kỳ quan trọng: việc thực thi quyền lực của chủ nghĩa xã hội. Cách đọc của riêng tôi về tác phẩm này lại dẫn tới kết luận khác: rằng “Nhà nước và cách mạng”, chẳng những không giải quyết vấn đề mà nó bàn đến, mà trái lại chỉ càng làm nổi bật lên sự phức tạp của chúng. Tác phẩm này cũng nhấn mạnh một điều mà kinh nghiệm hơn nửa thế kỷ qua đã xác nhận một cách thuyết phục và bi thảm: việc thực thi quyền lực xã hội chủ nghĩa vẫn là gót chân Achilles của chủ nghĩa Marx. Chính vì vậy, việc đánh giá lại về Nhà nước và cách mạng có lẽ cũng không phải là điều thừa, đặc biệt là trong một năm sẽ chứng kiến biết bao sự tôn vinh chính đáng dành cho bộ óc thiên tài và những thành tựu của Lênin. Chỉ bằng cách thăm dò những lỗ hổng trong lập luận mà nó đưa ra thì cuộc thảo luận về các vấn đề cơ bản đối với dự án xã hội chủ nghĩa mới có thể đem lại kết quả tích cực.

Luận điểm làm chỗ dựa cho toàn bộ lập luận của Lenin, và được ông nhắc đi nhắc lại, xuất phát từ Marx và Engels. Điều này có nghĩa là trong khi tất cả các cuộc cách mạng trước đây đã “hoàn thiện” (tức là củng cố) bộ máy nhà nước, thì “giai cấp công nhân không thể chỉ đơn giản nắm giữ bộ máy nhà nước và sử dụng nó cho mục đích riêng của mình”; và thay vào đó, họ phải đập tan, phá vỡ, và phá hủy bộ máy đó. Tầm quan trọng then chốt mà Lenin gán cho ý tưởng này thường được hiểu theo nghĩa rằng mục đích của “Nhà nước và cách mạng” là đặt cách mạng bạo lực như là khái niệm đối lập với “quá độ hòa bình”. Thực tế không phải vậy. Sự tương phản này chắc chắn là quan trọng, và Lenin đã tin (một cách dứt khoát hơn Marx) rằng cuộc cách mạng vô sản không thể đạt được nếu không dùng biện pháp bạo lực. Nhưng như nhà lý luận Marxist người Ý Lucio Colletti đã lưu ý gần đây, “Tác phẩm này của Lenin không nhằm vào những người không muốn giành chính quyền. Mục tiêu của ông không phải là chủ nghĩa cải cách. Ngược lại, nó nhắm vào những người muốn chiếm đoạt quyền lực nhưng không muốn phá hủy Nhà nước cũ”. [1] “Ngược lại” trong đoạn trích dẫn trên là quá mạnh: Thực chất, cách diễn tả chính xác hơn là: Lenin cũng phản đối chủ nghĩa cải cách. Nhưng đúng là mối bận tâm chủ yếu của ông trong Nhà nước và cách mạng là tấn công và bác bỏ tất cả mọi quan niệm về cách mạng mà không hiểu quan điểm của Marx theo nghĩa đen, rằng là phải đập tan nhà nước tư sản.

Câu hỏi hiển nhiên và quan trọng mà điều này đặt ra là loại nhà nước hậu cách mạng nào sẽ kế thừa nhà nước tư sản đã tan vỡ đó. Tất nhiên đây là một trong những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Marx, và một trong những điểm khác biệt cơ bản của nó với chủ nghĩa vô chính phủ, rằng là cuộc cách mạng vô sản phải đập tan nhà nước cũ, chứ nó không xóa bỏ chính nhà nước đó: nhà nước vẫn tồn tại và thậm chí còn sống sót trong một thời gian dài, mặc dù nó bắt đầu “tàn lụi” ngay lập tức. Điều đáng chú ý nhất về câu trả lời mà Lenin đưa ra cho câu hỏi về bản chất của nhà nước hậu cách mạng là việc ông đã đưa khái niệm “sự tàn lụi” của nhà nước đi xa đến mức nào. Lenin đưa nó đi xa tới mức ông thậm chí coi rằng ngay sau khi cách mạng thành công, khái niệm nhà nước không chỉ bắt đầu héo mòn, nhưng đã ở giai đoạn thối rữa sâu.

Cần phải lưu ý ngay rằng điều này không có nghĩa là quyền lực cách mạng có bản chất yếu đuối. Ngược lại, Lenin luôn nhấn mạnh rằng nó phải thực sự mạnh mẽ và phải duy trì được trong một thời gian dài. Điều này có nghĩa là quyền lực này không được nhà nước thực thi theo nghĩa thông thường của từ đó, tức là như một cơ quan quyền lực riêng biệt và khác biệt, dù có “dân chủ” đến đâu; mà là “nhà nước” đã được chuyển từ “nhà nước của các quan chức” thành “nhà nước của những người lao động có vũ trang”. (trang 334) [2*] Lenin lưu ý rằng, đây “vẫn là một bộ máy nhà nước”, nhưng “dưới hình thức những công nhân có vũ trang tiến hành thành lập lực lượng dân quân bao gồm toàn thể dân chúng”. (tr. 336) Lenin nhắc lại một lần nữa rằng “tất cả công dân đều được chuyển thành người làm thuê cho nhà nước, bao gồm những công nhân có vũ trang” (tr. 336); và một lần nữa, “nhà nước, tức là giai cấp vô sản có vũ trang và tổ chức thành giai cấp thống trị”. (tr.308) Các công thức giống hệt hoặc tương tự xuất hiện trong toàn bộ tác phẩm.

Trong tác phẩm Cách mạng vô sản và tên phản bội Kautsky, được viết sau khi những người Bolshevik nắm quyền, Lenin đã kịch liệt bác bỏ quan điểm của Kautsky rằng một giai cấp “chỉ có thể thống trị nhưng không thể cai trị”: Lenin đã viết: “Việc nói rằng một giai cấp không thể cai trị là hoàn toàn sai. Một sự vô lý như vậy chỉ có thể được thốt ra bởi một nghị sĩ đần độn, trong mắt chỉ thấy những nghị viện tư sản và những ‘đảng cầm quyền’.” [2] Nhà nước và Cách mạng chính xác là dựa trên quan niệm rằng giai cấp vô sản có thể “cai trị”, chứ không chỉ “thống trị”, và phải làm như vậy nếu muốn chế độ chuyên chính vô sản được thực hiện hóa. Lenin cũng viết: “Cách mạng không phải là hành động giai cấp mới chỉ huy và cai trị với sự trợ giúp của nhà nước cũ, mà là hành động đập vỡ cỗ máy này để rồi tiến hành chỉ huy và cai trị với sự trợ giúp của một cỗ máy mới. Kautsky hoặc là đang làm mờ ý tưởng nền tảng này của chủ nghĩa Marx, hoặc là ông ta không hiểu gì cả.” (tr.347) “Cỗ máy” mới này, như được nhắc tới trong Nhà nước và Cách mạng, là nhà nước của công nhân có vũ trang. Trên bề mặt, quan điểm này cho thấy bản chất của nhà nước theo Lenin là chế độ trị vì giai cấp mà không qua trung gian, một khái niệm gắn liền với chủ nghĩa vô trị hơn là chủ nghĩa Mác.

Điều này cần phải được giải thích thêm. Nhưng điểm nổi bật của Nhà nước và Cách mạng là khái niệm này được trình bày rõ ràng tới mức nào, như tôi sẽ cho thấy sau đây.

Lenin chỉ trích mạnh mẽ những người theo chủ nghĩa vô trị và nhấn mạnh sự cần thiết phải duy trì nhà nước trong thời kỳ chuyên chính vô sản. “Chúng ta không phải là người theo chủ nghĩa không tưởng,” ông viết, “chúng ta không ‘mơ’ đến việc ngay lập tức loại bỏ hoàn toàn bộ máy hành chính quản lý và tất thảy sự phục tùng.” (tr.298) Nhưng sau đó ông viết tiếp: “Tuy nhiên, phải phục tùng đội tiên phong vũ trang của tất cả những người bị bóc lột và những người lao động, tức là phục tùng giai cấp vô sản. (tôi in nghiêng) Ngay từ bây giờ, người ta đã có thể và phải tức khắc bắt đầu thay “sự chỉ huy” đặc biệt của những viên chức nhà nước bằng những chức năng giản đơn của “các nhân viên đốc công và nhân viên kế toán”. Những chức năng này hiện nay hoàn toàn hợp với trình độ phát triển của những người thành thị nói chung, và hoàn toàn có thể được thực hiện với số “tiền lương của công nhân”. Chính bản thân chúng ta, công nhân, sẽ tổ chức nền sản xuất lớn, xuất phát từ cái đã được chủ nghĩa tư bản tạo ra, dựa vào kinh nghiệm công nhân của chúng ta, đặt ra kỷ luật chặt chẽ được quyền lực nhà ước của công nhân vũ trang duy trì. Cúng ta sẽ biến viên chức nhà nước thành những người đơn giản chỉ thi hành chỉ thị của chúng ta, thành “những nhân viên đốc công và nhân viên kế toán” có trách nhiệm, có thể bị bãi miễn và chỉ lĩnh một số lương nhỏ (cố nhiên là đồng thời phải giữ lại các nhà kỹ thuật đủ các ngành, các loại và các hạng).” (trang 298)

Rõ ràng, một số loại quan chức vẫn tồn tại, nhưng điều rõ ràng không kém là chúng hoạt động dưới sự giám sát và kiểm soát chặt chẽ và liên tục của công nhân vũ trang; và như Lenin đã nhiều lần lưu ý, các quan chức có thể bị bãi nhiệm bất cứ lúc nào. Theo quan điểm này, “quan chức” không hoàn toàn bị xóa bỏ; nhưng họ đã bị hạ xuống vai trò là những người thực thi ý chí của nhân dân, được thể hiện dưới hình thức là công nhân vũ trang.

Thể chế chính thứ hai của nhà nước cũ là quân đội thường trực. Theo những lời đã trích dẫn trước đó, thể chế này đã được thay thế bằng lực lượng công nhân vũ trang, những người sẽ tiến hành thành lập lực lượng dân quân bao gồm toàn thể dân chúng.

Như vậy, hai thể chế mà Lenin coi là “đặc trưng nhất” (trang 283) của bộ máy nhà nước tư sản đã được thay thế: bộ máy quan liêu thì đã bị thu hẹp đáng kể về quy mô và những gì còn lại của nó đã bị khuất phục hoàn toàn bởi sự giám sát trực tiếp của nhân dân và quyền bãi nhiệm quan chức ngay lập tức; trong khi thể chế còn lại, quân đội thường trực, đã hoàn toàn bị bãi bỏ.

Mặc dù vậy, Lenin nhấn mạnh, nhà nước tập trung chưa bị bãi bỏ. Nhưng nó mang hình thức “chủ nghĩa tập trung tự nguyện, sự hợp nhất tự nguyện của các công xã thành một quốc gia, sự hợp nhất tự nguyện của các công xã vô sản, nhằm mục đích phá hủy sự thống trị của giai cấp tư sản và bộ máy nhà nước tư sản”. (trang 301)

Ở đây cũng đề ra câu hỏi hiển nhiên liên quan đến các thể chế cho phép thực thi chế độ chuyên chính của giai cấp vô sản. Vì như Lenin đã nói trong Nhà nước và Cách mạng về: “sự thay thế vĩ đại một số tổ chức nhất định bằng các tổ chức khác có bản chất khác biệt hoàn toàn”. (tr.293) Nhưng Nhà nước và Cách mạng không nói nhiều về các thể chế, ngoại trừ một số đoạn trích ngắn đề cập tới các Xô viết đại biểu công nhân và binh lính.

Lenin dành một số biệt danh cay nghiệt nhất của mình cho một hình thức thể chế đại diện, cụ thể là “chế độ nghị viện tham nhũng và thối nát của xã hội tư sản”. (tr.297) Tuy nhiên, “con đường thoát khỏi chế độ nghị viện tất nhiên không phải là bãi bỏ các thể chế đại diện và nguyên tắc bầu cử, mà là chuyển đổi các thể chế đại diện từ hình thức tổ buôn như hiện nay thành ‘các cơ quan làm việc’.” (tr.296) Các tổ chức thể hiện nguyên tắc này là các Xô viết đại biểu công nhân và binh lính. Lenin cũng đã nhắc tới “tổ chức của nhân dân có vũ trang đơn giản (như Xô viết đại biểu công nhân và binh lính .. )” (trang 329); trong một trang khác cũng có nói là: “sự chuyển đổi của toàn thể công dân thành công nhân và nhân viên khác của một tổ chức khổng lồ – gồm toàn bộ nhà nước – và đặt toàn bộ công tác của toàn thể tổ chức ấy hoàn toàn phụ thuộc vào một nhà nước thật sự dân chủ, vào nhà nước của các Xô-viết đại biểu công nhân và binh sĩ:” (trang 334). Ông cũng nhắc tới vấn đề này lần thứ ba như vậy ở dạng một câu hỏi: “Kautsky phát triển một ‘lòng tôn kính mê tín’ đối với ‘các bộ’; nhưng tại sao chúng không thể được thay thế bằng các ủy ban gồm các chuyên gia làm việc dưới quyền của các Xô Viết và các Đại biểu Công nhân và Binh lính có đủ quyền lực và toàn quyền?” (trang 346). Tuy nhiên, cần lưu ý rằng Xô viết chỉ “có đủ quyền lực và toàn quyền” khi so sánh với “ủy ban” mà Lenin nhắc đến. Đối với cử tri của mình, các đại biểu tất nhiên có thể bị bãi nhiệm bất cứ lúc nào: “đại diện” ở đây phải được hiểu là hoạt động trong phạm vi hẹp do chế độ dân chủ xác định.

“Nhà nước” mà Lenin nói đến trong Nhà nước và Cách mạng do đó là một chế độ nơi quân đội thường trực đã không còn tồn tại; nơi mà những gì còn lại của bộ máy quan liêu đã hoàn toàn phụ thuộc vào công nhân vũ trang; và nơi mà những người đại diện cho công nhân vũ trang này sau cùng cũng phải phục vụ họ. Chính “mô hình” này dường như đã biện minh cho lập luận đã nêu trước đó rằng “nhà nước” thể hiện chế độ chuyên chính vô sản đã đi vào giai đoạn thối rữa sâu ngay sau khi cách mạng thành cong.

Điều này đề ra rất nhiều vấn đề. Tuy nhiên, việc chúng hoàn toàn bị lờ đi trong Nhà nước và Cách mạng thì cũng không đồng nghĩa với việc là chúng có thể bị bỏ qua khi đánh giá thực tế tác phẩm này.

Vấn đề đầu tiên trong số này là vấn đề hòa giải chính trị của sức mạnh cách mạng. Chế độ chuyên chính của giai cấp vô sản rõ ràng là không thể tưởng tượng được nếu không có khả năng điều hướng và lãnh đạo về mặt chính trị, ngụ ý có tổ chức chính trị. Nhưng sự thật phi thường, đặc biệt là khi xét đến toàn bộ tư tưởng của Lenin, là yếu tố chính trị vốn chiếm một vị trí quan trọng trong tư tưởng của ông, cụ thể là đảng, lại không được quan tâm nhiều lắm trong Nhà nước và Cách mạng.

Có ba đoạn trích đề cập đến đảng trong tác phẩm, hai trong số đó không liên quan trực tiếp đến vấn đề chuyên chính vô sản. Một trong số đó là nhận xét tình cờ liên quan đến nhu cầu của đảng trong cuộc đấu tranh “chống lại tôn giáo làm cho nhân dân mê muội” (tr. 318); nhận xét thứ hai, cũng tình cờ không kém, lưu ý rằng “khi sửa đổi chương trình của Đảng, chúng ta phải bằng mọi cách xem xét lời khuyên của Engels và Marx, để đến gần chân lý hơn, để khôi phục chủ nghĩa Marx bằng cách loại bỏ những sự bóp méo của nó, để định hướng cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân vì sự giải phóng của họ một cách đúng đắn hơn”. (tr.310) Đoạn trích thứ ba và có liên quan nhất có nội dung như sau: “Bằng cách giáo dục đảng công nhân, chủ nghĩa Marx cũng giáo dục đội tiên phong của giai cấp vô sản, một tổ chức có khả năng nắm quyền lực và lãnh đạo toàn thể nhân dân tới  chủ nghĩa xã hội; có khả năng chỉ đạo và tổ chức hệ thống mới; và có khả năng trở thành người thầy, người hướng dẫn, người lãnh đạo của toàn thể nhân dân lao động và bị bóc lột trong việc tổ chức đời sống xã hội của mình sao cho họ vừa không cần tư sản và lại cũng có thể đấu tranh chống lại tư sản được.” (trang 281)

Đoạn văn này không chỉ ra rõ ràng rằng liệu có phải là giai cấp vô sản có khả năng nắm quyền lực, lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức, v.v.; hay liệu là đội tiên phong của giai cấp vô sản, tức là đảng công nhân, mới được nhắc tới ở đây. Cả hai cách giải thích đều có thể xảy ra. Đầu tiên, vấn đề lãnh đạo chính trị bị bỏ ngỏ hoàn toàn. Cần lưu ý rằng Marx đã để ngỏ chính quan điểm này trong những cân nhắc của ông về Công xã Paris và về chế độ chuyên chính vô sản. Nhưng với tôi, có vẻ như đó không phải là điều có thể bị bỏ qua trong cuộc thảo luận về chế độ cai trị cách mạng, ngoại trừ trong thuật ngữ của lý thuyết tự phát (vốn né tránh vấn đề thay vì giải quyết nó). Mặt khác, cách giải thích thứ hai phù hợp hơn với mọi thứ chúng ta biết về đánh giá của Lenin về tầm quan trọng của đảng, nhưng cũng chỉ nêu ra vấn đề mà không giải quyết được nó. Câu hỏi đó tất nhiên là tối quan trọng đối với toàn bộ ý nghĩa của khái niệm chuyên chính vô sản: mối quan hệ giữa giai cấp vô sản mà cách mạng được cho là thiết lập nên chuyên chính và đảng có vai trò giáo dục, lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức, v.v. là gì? Chỉ trên cơ sở giả định về mối quan hệ cộng sinh hữu cơ giữa hai bên thì vấn đề này mới hoàn toàn biến mất; nhưng trong khi mối quan hệ như vậy có thể đã tồn tại giữa Đảng Bolshevik và giai cấp vô sản Nga trong những tháng trước Cách mạng Tháng Mười, tức là khi Lenin viết Nhà nước và Cách mạng, giả định rằng loại mối quan hệ này có thể được coi là một sự thật hiển nhiên và lâu dài thuộc về lĩnh vực diễn ngôn về quyền lực, chứ không phải là thực tế của nó.

Cho dù đảng hay giai cấp vô sản được chỉ định trong đoạn trích trên có đúng là những người lãnh đạo toàn thể nhân dân tiến tới chủ nghĩa xã hội hay không, thì thực tế là Lenin đã khẳng định vai trò trung tâm của đảng sau khi những người Bolshevik lên nắm quyền. Thật vậy, vào năm 1919, ông đã khẳng định được sự chỉ đạo chính trị độc quyền của đảng. “Đúng vậy, chế độ độc tài của một đảng!” ông nói lúc đó: “chúng ta đứng trên lập trường này và không thể rời xa lập trường này, vì đây là đảng đã giành được vị trí tiên phong cho toàn bộ giai cấp vô sản công nghiệp và nhà máy trong nhiều thập kỷ”. Trên thực tế, “chế độ chuyên chính của giai cấp công nhân được hiện thực hóa thông qua đảng Bolshevik, vốn từ năm 1905 trở về trước đã thống nhất với toàn thể giai cấp vô sản cách mạng”. [3] Sau này, như EH Carr cũng lưu ý, Lenin mô tả nỗ lực phân biệt giữa chế độ chuyên chính giai cấp và chế độ chuyên chính của đảng là bằng chứng của một “sự nhầm lẫn về tư tưởng không thể tin được và không thể gỡ rối được” [4]; và vào năm 1921, ông đã thẳng thừng khẳng định chống lại những lời chỉ trích của phe đối lập Công nhân rằng “… chế độ chuyên chính vô sản là không thể nếu không thông qua Đảng Cộng sản”. [5]

Điều này có thể đúng, nhưng rõ ràng đây là một “mô hình” hoàn toàn khác về việc thực hiện quyền lực cách mạng so với mô hình được trình bày trong Nhà nước và Cách mạng, và nó làm thay đổi hoàn toàn ý nghĩa gắn liền với “chế độ chuyên chính vô sản”. Ít nhất, nó đã giúp định hình lại vấn đề quan hệ giữa đảng cầm quyền và giai cấp vô sản một cách sắc nét hơn. Thậm chí vấn đề ở đây không phải là về đảng, mà đúng hơn là sự lãnh đạo của đảng, theo động lực mà Trotsky đã miêu tả sau khi Đảng Dân chủ Xã hội Nga phân mảnh thành hai phe Bolshevik và Menshevik, cụ thể là “tổ chức đảng [nhóm họp kín] đầu tiên thay thế toàn bộ đảng; sau đó là Ban Chấp hành Trung ương thay thế tổ chức; và cuối cùng là một ‘nhà độc tài’ duy nhất thay thế Ban Chấp hành Trung ương…” [6]

Sau Cách mạng, Lenin đã tin tưởng và tuyên bố rằng không có xung đột giữa chế độ chuyên chính của giai cấp vô sản và chế độ chuyên chính của đảng; và Stalin đã lấy tuyên bố đó làm cơ sở và tính hợp pháp cho quyền cai trị của mình. Trong trường hợp của Lenin, rất ít điều có thể đánh giá sự vĩ đại của ông bằng việc ông nên đặt câu hỏi về sự đồng nhất đó khi còn nắm quyền, và bị ám ảnh bởi suy nghĩ rằng không thể coi đó là điều hiển nhiên. Ông có thể, giống như những người kế nhiệm của mình, cố gắng tự mình không nhìn thấy mức độ khác biệt giữa lời tuyên bố và thực tế: việc ông ấy đã không làm như vậy và rằng ông đã chết trong đau khổ [7] không phải là phần ít quan trọng nhất trong di sản của ông, mặc dù đó không phải là phần di sản có thể được gợi lại, chứ đừng nói đến việc được ca ngợi, ở đất nước diễn ra Cách mạng Bolshevik.

Tất nhiên, ta rất dễ bị cám dỗ bởi việc gán sự chuyển đổi từ chế độ chuyên chính vô sản thành chế độ độc tài của đảng (hay đúng hơn là của các nhà lãnh đạo đảng) với hoàn cảnh đặc biệt của nước Nga sau năm 1917 – vào tình trạng lạc hậu, nội chiến, can thiệp của nước ngoài, tàn phá, thiếu thốn trầm trọng, sự bất mãn của người dân và sự thất bại của các quốc gia khác trong việc lắng nghe lời kêu gọi cách mạng.

Với tôi, có vẻ như chúng ta cần phải chống lại sự cám dỗ này. Tất nhiên, những hoàn cảnh bất lợi mà những người Bolshevik phải đối mặt là có thật. Nhưng tôi cho rằng những hoàn cảnh này chỉ làm trầm trọng thêm, mặc dù chắc chắn ở mức độ cực đoan, một vấn đề vốn dĩ có trong khái niệm chuyên chính vô sản. Vấn đề nảy sinh vì chế độ chuyên chính vô sản, ngay cả trong những hoàn cảnh thuận lợi nhất, cũng không thể thực hiện được nếu không có sự hòa giải chính trị; và vì việc đưa khái niệm hòa giải chính trị vào “mô hình” cũng có ảnh hưởng đáng kể đến bản chất của mô hình này. Điều này đặc biệt đúng nếu hòa giải chính trị được hiểu theo nghĩa là chế độ một đảng duy nhất. Đối với chế độ như vậy, ngay cả khi “chủ nghĩa tập trung dân chủ” được áp dụng linh hoạt hơn nhiều so với trước đây, thì cũng gây khó khăn hơn nhiều và có thể ngăn cản việc thể chế hóa cái mà có thể được gọi một cách lỏng lẻo là chủ nghĩa đa nguyên xã hội chủ nghĩa. Điều này cực kỳ khó đạt được và thậm chí có thể là không thể trong hầu hết các tình huống mang tính cách mạng. Nhưng cũng nên nhận ra rằng trừ khi có sự chuẩn bị đầy đủ cho các kênh biểu đạt và diễn đạt chính trị thay thế, tức các thứ mà chính định nghĩa về chế độ độc đảng đã loại trừ, bất kỳ cuộc thảo luận nào về nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đều chỉ là lời nói suông. Chế độ độc đảng đòi hỏi một ý chí vô sản cách mạng không thể chia cắt, mà chính đảng này là biểu hiện tự nhiên của ý chí đó. Nhưng đây không phải là một tiền đề hợp lý để dựa vào đó mà xây dựng nên “chế độ chuyên chính vô sản”: trong bất kỳ xã hội nào, dù được thành lập như thế nào, thì nhân dân cũng không thể có độc tôn một ý chí chung và thống nhất toàn diện. Đây chính là lý do tại sao vấn đề hòa giải chính trị lại nảy sinh. Vấn đề này không nhất thiết phải được coi là không thể giải quyết. Nhưng để có được độ phân giải đó, trước hết, nó phải ít nhất là được công nhận.

Tuy nhiên, vấn đề đảng phái lại đưa người ta trở lại vấn đề nhà nước. Khi Lenin nói, trong trường hợp của nước Nga, rằng chế độ chuyên chính vô sản là không thể nếu không thông qua Đảng Cộng sản, điều ông cũng ngụ ý là Đảng phải truyền ý chí của mình vào và đảm bảo sự thống trị của mình đối với các thể chế đã được chỉ định trong Nhà nước và cách mạng là đại diện cho những người lao động có vũ trang. Năm 1921, ông lưu ý rằng “với tư cách là đảng cầm quyền, chúng tôi không thể không hợp nhất các ‘chính quyền’ Xô viết với các ‘chính quyền’ của đảng – với chúng tôi, họ đã và sẽ hợp nhất” [8]; và trong một trong những bài viết cuối cùng của ông trong Pravda, được viết vào đầu năm 1923, ông cũng gợi ý rằng “sự liên kết linh hoạt giữa Xô viết và các đảng phái”, vốn là “nguồn sức mạnh to lớn” trong chính sách đối ngoại “sẽ ít nhất cũng có hiệu quả tương tự (tôi nghĩ là hiệu quả hơn nhiều) nếu được áp dụng cho toàn bộ bộ máy nhà nước của chúng ta”. [9] Nhưng điều này có nghĩa là nếu đảng phải mạnh thì nhà nước, cơ quan quản lý của đảng, cũng phải mạnh. Và thực ra, ngay từ tháng 3 năm 1918, Lenin đã nói rằng “hiện tại chúng ta ủng hộ nhà nước vô điều kiện”; và đối với câu hỏi mà chính ông đã đặt ra: “Khi nào thì nhà nước sẽ bắt đầu suy tàn?” thì ông trả lời: “Chúng ta sẽ phải tổ chức nhiều hơn hai kỳ đại hội trước khi có thể nói: Hãy xem đất nước chúng ta đang chết dần chết mòn như thế nào. Cho đến lúc đó thì vẫn còn quá sớm để đưa ra phán quyết. Việc tuyên bố trước về sự diệt vong của nhà nước sẽ là vi phạm quan điểm lịch sử”. [10]

Có một cách hiểu hoàn toàn phù hợp với Nhà nước và Cách mạng; và một cách hiểu khác quan trọng hơn, nhưng lại không phù hợp. Cách hiểu hợp lý sẽ cho là Lenin luôn hình dung về một quyền lực mạnh mẽ sẽ tồn tại sau khi cuộc cách mạng thành công. Nhưng nó không nhất quán theo nghĩa là ông cũng đã miêu tả trong Nhà nước và Cách mạng rằng quyền lực này sẽ được thực hiện không phải bởi nhà nước theo cách hiểu thông thường mà bởi một “nhà nước” của những người lao động có vũ trang. Chắc chắn rằng tình trạng mà ông nói đến sau cuộc cách mạng không phải là tình trạng mà ông ấy nói đến khi ông viết Nhà nước và Cách mạng.

Ở đây tôi cũng tin rằng việc chỉ đơn thuần quy sự bất nhất cho những điều kiện cụ thể của nước Nga mà những người Bolshevik phải đối mặt là chưa đủ. Bởi vì với tôi, có vẻ như loại dân chủ như không có sự trung gian mà Lenin mô tả trong tác phẩm thực tế thuộc về tương lai khá xa, trong đó thì như chính Lenin đã nói, “nhu cầu sử dụng bạo lực đối với mọi người nói chung, […], sẽ hoàn toàn biến mất, vì mọi người sẽ quen với việc hưởng thụ các điều kiện cơ bản của đời sống xã hội mà không có bạo lựckhông có sự phục tùng”. (tr.328) Cho đến thời điểm đó, một nhà nước vẫn tồn tại, nhưng có khả năng cao rằng nó không phải là loại nhà nước mà Lenin nói đến trong Nhà nước và Cách mạng: nhà nước mà không cần đặt trong dấu ngoặc kép.

Trong cách xử lý vấn đề của Lenin, ít nhất là trong Nhà nước và Cách mạng, hai “mô hình” của nhà nước được đối chiếu một cách sắc nét nhất có thể: hoặc có “nhà nước cũ”, với bộ máy đàn áp, quan liêu quân sự, tức là nhà nước tư sản; hoặc có loại nhà nước “chuyển tiếp” của chế độ chuyên chính vô sản mà như tôi đã lập luận thì gần như không mang hình thái một nhà nước thực sự chút nào. Nhưng nếu, như tôi tin, loại “nhà nước” sau này đại diện cho một lối tắt mà thực tế không cho phép, thì [3*]các công thức của Lenin có mục đích tránh né hơn là giải quyết câu hỏi cơ bản. Các câu hỏi này nằm ở trung tâm của dự án xã hội chủ nghĩa: Cụ thể là loại nhà nước, không có dấu ngoặc kép, phù hợp với việc thực thi quyền lực xã hội chủ nghĩa ra sao?

Về mặt này, cần phải nói rằng di sản của Marx và Engels về lĩnh vực này có phần mơ hồ hơn những gì Lenin đang khẳng định. Cả hai người chắc chắn đều coi đó nhiệm vụ chính của cách mạng vô sản là “đập tan” nhà nước cũ; và Marx cũng đã nói về Công xã như là “hình thức chính trị cuối cùng đã được khám phá để thực hiện sự giải phóng kinh tế của lao động”. [11] Nhưng cũng không phải là không liên quan khi lưu ý rằng, mười năm sau Công xã được thành lập, Marx cũng đã viết rằng “ngoài thực tế rằng điều này [tức là Công xã] chỉ đơn thuần là sự trỗi dậy của một thành phố trong những điều kiện đặc biệt, phần lớn Công xã không hề theo chủ nghĩa xã hội và cũng không thể theo chủ nghĩa xã hội”. [12] Tất nhiên Marx cũng không bao giờ mô tả Công xã là chế độ chuyên chính của giai cấp vô sản. Chỉ có Engels làm như vậy vào năm 1891 trong phần Lời nói đầu trong tác phẩm Nội chiến ở Pháp: “Gần đây, những kẻ theo chủ nghĩa dân chủ xã hội lại một lần nữa lại đứng yên trong kinh hoàng khi nghe những lời sau: Chế độ chuyên chính vô sản. Vâng, thưa các quý ông, các vị có muốn biết chế độ chuyên chính này trông như thế nào không? Hãy nhìn vào Công xã Paris. Đó chính là chế độ chuyên chính vô sản”. [13] Nhưng trong cùng năm 1891, Engels cũng đã nói, trong tác phẩm Phê bình Dự thảo Chương trình Erfurt của Đảng Dân chủ Xã hội Đức, rằng “nếu có một điều chắc chắn thì đó là đảng của chúng tôi và giai cấp công nhân chỉ có thể lên nắm quyền dưới hình thức cộng hòa dân chủ. Đây thậm chí còn là hình thức cụ thể của chế độ chuyên chính vô sản, như cuộc Cách mạng Pháp vĩ đại đã chỉ ra…” (Trích dẫn của Lenin trong Nhà nước và Cách mạng(tr.314). Bình luận về điều này, Lenin tuyên bố rằng “Engels đã lặp lại một cách rất rõ ràng ý tưởng cơ bản xuyên suốt mọi tác phẩm của Marx. Cụ thể hơn, ý tưởng đó là: nền cộng hòa dân chủ là cách tiếp cận gần nhất với chế độ chuyên chính vô sản”. (tr.314) Nhưng “cách tiếp cận gần nhất” không phải là “hình thức cụ thể”; và thực chất ta có thể nghi ngờ rằng khái niệm về nền cộng hòa dân chủ như là cách tiếp cận gần nhất với chế độ chuyên chính vô sản liệu có đúng là một ý tưởng cơ bản xuyên suốt mọi tác phẩm của Marx. Ngoài ra, trong Lời nói đầu trong tác phẩm Nội chiến ở Pháp, Engels đã nói điều sau về nhà nước: “trong trường hợp tốt nhất thì đó là một điều xấu xa mà giai cấp vô sản thừa hưởng sau cuộc đấu tranh giành quyền tối cao của giai cấp. Giai cấp vô sản sau chiến thắng sẽ phải cắt bỏ những mặt xấu xa nhất của nó càng nhanh càng tốt, giống như Công xã đã từng làm, cho đến khi một thế hệ được nuôi dưỡng trong các điều kiện xã hội mới, tự do có thể vứt bỏ toàn bộ gánh nặng nhà nước này”. (Trích lời Lenin, Nhà nước và Cách mạng, trang 320. Chữ nghiêng của tôi)

Trên cơ sở những đoạn văn như vậy, nhà lãnh đạo Menshevik, Julius Martov, sau Kautsky, đã viết sau cuộc cách mạng Bolshevik rằng khi nói về chế độ chuyên chính vô sản, Engels không sử dụng thuật ngữ “để chỉ một hình thức chính quyền, mà để chỉ cơ cấu xã hội của quyền lực Nhà nước”. [14]

Với tôi, điều này có vẻ là hiểu sai Engels và Marx. Cả hai người chắc chắn nghĩ rằng chế độ chuyên chính vô sản không chỉ có nghĩa là “cấu trúc xã hội của quyền lực Nhà nước” mà thực chất là “một hình thức chính phủ”; và Lenin hiểu vấn đề sát nghĩa với họ hơn nhiều với họ khi ông trong Nhà nước và Cách mạng về “sự thay thế vĩ đại một số tổ chức nhất định bằng các tổ chức khác có bản chất khác biệt hoàn toàn”. (trang 293)

Tuy nhiên, vấn đề là, ngay cả khi xem xét đầy đủ những gì Marx và Engels nói về Công xã, họ vẫn để lại vấn đề về các tổ chức khác có bản chất khác biệt hoàn toàn này cho các thế hệ sau xây dựng; và Lenin cũng vậy, bất chấp những gì đã đề cập tới trong Nhà nước và Cách mạng.

Tuy nhiên, điều này không làm giảm tầm quan trọng của công trình. Bất chấp tất cả những câu hỏi mà nó chưa giải quyết, nó mang theo một thông điệp mà tầm quan trọng của nó đã được chứng minh qua thời gian: đó là dự án xã hội chủ nghĩa là một dự án chống quan liêu, và cốt lõi của nó là tầm nhìn về một xã hội mà “lần đầu tiên trong lịch sử xã hội văn minh, phần lớn dân số sẽ vùng lên để giành quyền độc lập không chỉ trong việc bỏ phiếu và bầu cử, mà còn cũng trong công tác quản lý nhà nước hàng ngày. Dưới chủ nghĩa xã hội, ai ai cũng sẽ cai trị, và ai ai cũng sẽ sớm quen với việc không có ai cai trị.” (tr.348) Đây cũng là tầm nhìn của Marx; và là một trong những công trạng lịch sử của Nhà nước và Cách mạng là đưa nó trở lại vị trí xứng đáng trong chương trình nghị sự xã hội chủ nghĩa. Công lao lịch sử thứ hai của nó là khẳng định rằng điều này không được phép chỉ là một hy vọng xa vời, mơ hồ có thể bị bỏ qua trong hiện tại; mà việc hiện thực hóa nó phải được coi là một phần trực tiếp của lý thuyết và thực tiễn cách mạng. Tôi đã lập luận rằng trong Nhà nước và Cách mạng, Lenin đã đánh giá quá cao khả năng nhà nước có thể bị “tàn lụi” trong bất kỳ tình huống hậu cách mạng nào. Nhưng rất có thể việc tích hợp việc đánh giá quá cao này vào tư duy xã hội chủ nghĩa chính là điều kiện cần thiết để vượt qua “tính thực tiễn” xám xịt và quan liêu vốn đã ăn sâu vào kinh nghiệm xã hội chủ nghĩa trong nửa thế kỷ qua.

Chú thích

1*. Bài viết này được viết cho một ấn bản đặc biệt của Monthly Review kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Lenin.

2*. Tất cả các trích dẫn từ Nhà nước và Cách mạng được lấy từ VI Lênin – Tác phẩm chọn lọc (London 1969) và số trang tham chiếu được ghi trong ngoặc đơn. Trừ khi có quy định khác, tất cả chữ in nghiêng đều có trong văn bản.

3*. Điều này có thể cần phải được gii thích sâu hơn: ngay sau khi cách mạng thành công thì vấn đề này thường có vẻ như đã biến mất. Những vấn đề thực sự bắt đầu xuất hiện vào ngày hôm sau, và ngày hôm sau nữa, khi động lực và sự nhiệt tình ban đầu bắt đầu suy yếu và phải đối mặt với nhiều vấn đề và nguy hiểm mới to lớn.

Ghi chú

  1. Lucio Colletti, Power and Democracy in Socialist Society, trong New Left Review, Số 56, tháng 7-8 năm 1969, tr.19. Để có thêm một đánh giá thú vị về Nhà nước và Cách mạng, xem L. Magri, ’Etat et la Revolution Aujourd’hui, trongLes Temps Modernes, Tháng 8-9 năm 1968, Số 266-267.
  2. VI Lênin, Cách mạng vô sản và tên phản bội Kautsky (London 1941), trang 24. Chữ in nghiêng trong văn bản.
  3. EH Carr, Cách mạng Bolshevik 1917-1923 (London 1950), Tập I, trang 230.
  4. Như trên., trang 230.
  5. Robert V. Daniels, The State and Revolution: A Case Study in the Genesis and Transformation of Communist Ideology, trong The American Slavic and East European Review (tháng 2 năm 1953), Tập XII, Số 1, tr.24.
  6. I. Deutscher, The Prophet Armed. Trotsky: 1879-1921 (Luân Đôn 1954), trang 90.
  7. Xem, ví dụ M. Lewin, Lenin’s Last Struggle  (Luân Đôn 1969).
  8. Carr, op.cit., trang 223.
  9. Như trên., trang 224.
  10. Như trên., trang 246.
  11. K. Marx, Nội chiến ở Pháp, trong Tác phẩm chọn lọc (Moscow 1950), Tập I, tr.473.
  12. K. Marx gửi F. Domela-Niewenhuis, ngày 22 tháng 2 năm 1881, trong K. Marx và F. Engels, Thư từ chọn lọc (Moscow 1953), trang 410.
  13. Tác phẩm chọn lọc, op.cit., Tập I, trang 440.
  14. J. Martov, The State and the Socialist Revolution (New York 1938), trang 41.

 

Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận