Lý thuyết của Marx về sự bấp bênh của giai cấp công nhân
Lý thuyết của Marx về sự bấp bênh của giai cấp công nhân
Tại sao nó vẫn còn liên quan tới ngày nay
Tác giả: John Bellamy Foster & R. Jamil Jonna
John Bellamy Foster là biên tập viên của Monthly Review và là giáo sư xã hội học tại Đại học Oregon. Cuốn sách gần đây nhất của ông, đồng tác giả với Paul Burkett, là Marx and the Earth: An Anti-Critique (Brill, 2016).
R. Jamil Jonna là biên tập viên phụ trách sản xuất tại Monthly Review. Bài viết trước đây của ông cho tạp chí “Braverman and the Structure of the U.S. Working Class” (Braverman và Cấu trúc của Giai cấp Công nhân Hoa Kỳ), cũng được viết chung với John Bellamy Foster, đã xuất hiện trên tạp chí Monthly Review số tháng 10 năm 2014.
Đăng trên Monthly Review.
Trong vòng mười lăm năm trở lại đây, khái niệm “sự bấp bênh của người lao động” đã một lần nữa trở nên phổ biến trong giới khoa học xã hội. Xu hướng này càng trở nên rõ rệt sau cuộc Khủng hoảng Tài chính Toàn cầu 2007–2009, vốn đã để lại một thời kỳ trì trệ kinh tế sâu rộng và vẫn còn tiếp diễn ở nhiều khu vực trên thế giới. Phần lớn các học giả định nghĩa sự bấp bênh bằng cách chỉ ra những gì người lao động thiếu, bao gồm: khả năng tiếp cận dễ dàng với công việc có lương, sự bảo vệ khỏi nguy cơ bị sa thải tùy tiện, khả năng thăng tiến, sự ổn định việc làm lâu dài, an toàn đầy đủ, cho phép phát triển kỹ năng mới, mức lương đủ sống và quyền được đại diện bởi công đoàn.
Nguồn gốc của khái niệm “sự bấp bênh” của người lao động thường được truy về công trình ban đầu của Pierre Bourdieu về Algeria. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu thường bỏ qua những suy ngẫm trưởng thành hơn của chính Bourdieu về khái niệm này, khi ông liên hệ nó trực tiếp với phân tích của Karl Marx về “đội quân lao động dự bị”. Đối với Bourdieu, “sự bấp bênh” tồn tại khi “sự hiện diện của một đội quân lao động dự bị lớn… giúp tất cả những người có việc cảm nhận rằng họ không hề là không thể thay thế được.” Tương tự với các khái niệm của Marx về những tầng lớp lao động dự bị trôi nổi, tiềm ẩn, trì trệ và bần cùng hóa, Bourdieu liên kết sự bấp bênh đặc biệt với những gì ông gọi là “tầng lớp dưới của vô sản” (subproletariat). Tuy vậy, ông có xu hướng nhìn nhận một sự đứt gãy giữa nhóm “tiền vô sản” này và “giai cấp vô sản”, trong đó giai cấp vô sản được định nghĩa bởi mức độ ổn định cần thiết để khởi động một “dự án cách mạng.”
Với tư cách là một khái niệm, sự bấp bênh của người lao động không mới mẻ. Nó có một lịch sử lâu dài trong tư tưởng xã hội chủ nghĩa, nơi mà từ đầu đã gắn liền với khái niệm “đội quân lao động dự bị”. Friedrich Engels đã giới thiệu ý tưởng về sự bấp bênh trong phân tích của ông về đội quân lao động dự bị trong tác phẩm Tình cảnh giai cấp công nhân ở Anh. Marx và Engels đã sử dụng khái niệm này trong cùng một ngữ cảnh trong Tuyên ngôn Cộng sản, và sau đó nó trở thành một yếu tố then chốt trong phân tích của Marx về đội quân lao động dự bị trong Tư bản tập I. Các nhà lý luận Marxist đầu tiên, đặc biệt là William Morris, đã mở rộng phân tích này, và trọng tâm phê phán của họ về tư bản thường được đặt vào khái niệm “sự bấp bênh”. Do đó, khái niệm bấp bênh có mối quan hệ chặt chẽ với phê phán của Marx đối với chủ nghĩa tư bản. Vào những năm 1970, khái niệm này càng có thêm ý nghĩa trong các công trình của những nhà lý luận như Harry Braverman và Stephen Hymer, những người nghiên cứu mối quan hệ giữa lao động dư thừa với các điều kiện của chủ nghĩa tư bản độc quyền và quá trình quốc tế hóa tư bản.
Trong nhiều năm gần đây, phân tích của Marx về “quy luật chung của tích lũy tư bản”, vốn chỉ ra các điều kiện ngày càng bấp bênh trong việc làm và sự nghèo tương đối của tầng lớp lao động, đã bị giới khoa học xã hội chính thống xem là một lý thuyết thô sơ về sự bần cùng hóa. Tuy nhiên, khái niệm sự bấp bênh như một điều kiện phổ biến của đời sống giai cấp công nhân đã được khám phá lại. Tuy vậy, ý tưởng này thường bị đối xử một cách chắp vá, giản lược và phi lịch sử,đặc trưng của khoa học xã hội và nhân văn đương đại,và bị tách rời khỏi lý thuyết tích lũy rộng lớn bắt nguồn từ Marx và truyền thống xã hội chủ nghĩa. Kết quả là một tập hợp các quan sát rời rạc về những hiện tượng được xem như là sự phát triển ngẫu nhiên.
Một số nhà khoa học xã hội phản biện, nổi bật là cựu chuyên gia kinh tế của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) Guy Standing, sử dụng từ mới “precariat” để chỉ một tầng lớp mới gồm chủ yếu là những người lao động trẻ trải qua tất cả các đặc điểm chính của sự bấp bênh. Theo nhà xã hội học người Pháp Béatrice Appay, thuật ngữ “precariat” “xuất phát từ sự kết hợp của hai từ ‘precarious’ (bấp bênh) và ‘proletariat (vô sản)’. Nó tập hợp những người thất nghiệp và người lao động bấp bênh (cả lao động chân tay và trí óc) đang đấu tranh trong mọi lĩnh vực hoạt động.” Nhưng bởi vì bản thân Marx đã định nghĩa giai cấp vô sản như một giai cấp đặc trưng bởi sự bấp bênh, thuật ngữ precariat thường chỉ là một sự thay thế hợp thời nhưng sai lầm cho khái niệm proletariat (theo nghĩa của Marx),hoặc đôi khi được sử dụng để chỉ một phân nhóm của giai cấp vô sản, tức là tầng lớp dưới của vô sản (subproletariat). Điều này tương tự với các lý thuyết trước đó về “tầng lớp dưới” như một thực thể tách biệt khỏi toàn bộ giai cấp công nhân. Trong các diễn giải khác nhau này, khái niệm precariat thường được đặt đối lập với cái gọi là khái niệm quá cứng nhắc về giai cấp vô sản,trong đó giai cấp vô sản được định nghĩa như một lực lượng lao động công nghiệp ổn định, có việc làm chính thức, thường được tổ chức trong các công đoàn (một cách hiểu tuy nhiên lại rất xa với định nghĩa cổ điển của Marx về giai cấp vô sản).
Nhà xã hội học cấp tiến người Pháp Loïc Wacquant cho rằng “trái ngược với giai cấp vô sản trong nhãn quan Marxist về lịch sử,một giai cấp được kêu gọi để tự xóa bỏ bản thân bằng cách thống nhất và phổ quát hóa chính mình,precariat chỉ có thể làm nên bản thân để rồi ngay lập tức xóa bỏ bản thân”, tức là nó chỉ có hai lựa chọn: hoặc gia nhập lực lượng lao động chính thức và có được “mức lương ổn định”, hoặc rút lui “khỏi thế giới lao động hoàn toàn.” Theo Wacquant, sự gia tăng của sự bấp bênh trong giai cấp lao động là một chuyển động hướng đến “phi-vô sản hóa” hơn là hướng đến sự thống nhất của giai cấp vô sản. Việc chính Marx đã trình bày điều kiện của giai cấp công nhân chủ yếu dưới dạng sự bấp bênh trong việc làm và tồn tại,một thực tế mà chúng ta sẽ làm rõ dưới đây, lại hoàn toàn bị bỏ qua trong lập luận này. Thay vào đó, các khái niệm về precariat và sự bấp bênh của người lao động đang được thúc đẩy như những lựa chọn thay thế cho khái niệm vô sản, thường nhằm ám chỉ sự bất khả thi của một dự án cách mạng dựa vào giai cấp công nhân trong hoàn cảnh hiện nay, theo truyền thống của tuyên bố “Từ biệt giai cấp công nhân” của André Gorz.
Theo nhà phê bình xã hội chủ nghĩa Richard Seymour, trong bài tiểu luận “Chúng ta đều là những con người bấp bênh,” “precariat không phải là một giai cấp, và việc nó được chấp nhận rộng rãi như một biểu tượng văn hóa trong các nền văn hóa bất đồng và cánh tả không liên quan gì đến việc cho rằng nó là một giai cấp. Thay vào đó, đó là một lời gọi mời dân túy đặc thù”,một sự gọi mời “vận hành trên một mâu thuẫn thực sự, mang tính chất phê phán trong chủ nghĩa tư bản hiện nay”: sự gia tăng quy mô toàn cầu của một lực lượng lao động ngày càng linh hoạt, đặc trưng bởi thất nghiệp, thiếu việc làm, và công việc tạm thời, bất định.
Trái ngược với những diễn giải đậm tính ngôn ngữ như vậy, vốn xuất phát chủ yếu từ các khuynh hướng hậu hiện đại trong cánh tả, các nhà xã hội học chính thống thường hình dung sự bấp bênh của người lao động bằng những thuật ngữ giản dị hơn: như không gì khác ngoài việc khoảng cách ngày càng lớn giữa “công việc tốt” và “công việc tồi”. Hơn nữa, có một xu hướng mạnh mẽ hướng tới một quan điểm “cộng tác giai cấp”, trong đó mục tiêu của mọi giai cấp là tái thiết “khế ước xã hội giữa lao động có tổ chức và tư bản có tổ chức.” Mục tiêu, nói cách khác, là điều chỉnh điều kiện lao động để quay lại từ lao động phi chính thức sang lao động chính thức. Dự án này đương nhiên được xem là một phản ứng trước sự suy yếu của lao động có tổ chức. Nhưng những phân tích mang tính cải lương và hời hợt như vậy hiếm khi khám phá động lực lịch sử của tích lũy tư bản,thứ đã dẫn đến sự quay trở lại của tình trạng bấp bênh ở trung tâm của nền kinh tế thế giới tư bản. Nhìn chung, các nhà khoa học xã hội chính thống thiếu các công cụ phân tích để tiếp cận một hiện tượng có gốc rễ trong bản chất nội tại của tích lũy tư bản. Những cặp kính khái niệm đã cũ hàng thế kỷ đang che khuất tầm nhìn của họ.
Trước một mớ quan điểm hỗn loạn như vậy,phần lớn chỉ là phản ứng tùy tiện trước một vấn đề xã hội bị cho là biệt lập,điều cần thiết là phải quay trở lại với truyền thống Marxist cổ điển, nơi vấn đề bấp bênh lần đầu tiên được nêu ra. Ở đây, các tư tưởng của Marx, Engels và Morris trong thế kỷ XIX, cùng với các nhà tư tưởng như Harry Braverman, Stephen Hymer và Samir Amin trong thời hiện đại, là không thể thay thế. Bằng cách áp dụng các khung phân tích do những nhà tư tưởng này cung cấp, chúng ta có thể khảo sát các khía cạnh thực nghiệm của sự bấp bênh của người lao động, cả ở Hoa Kỳ lẫn toàn cầu, và đi đến những kết luận cụ thể về sự tiến triển của quá trình tích lũy tư bản và sự bấp bênh của giai cấp công nhân trong thời đại của chúng ta, cũng như ảnh hưởng của nó đối với cuộc khủng hoảng mang tính thời đại hiện nay.
Engels, Marx, Morris và Khái niệm Lao động Bấp Bênh
Cấu trúc lý thuyết về tính bấp bênh của người lao động gắn liền với “đội quân công nghiệp dự trữ” có nguồn gốc, như đã chỉ ra ở trên, trong chủ nghĩa duy vật lịch sử cổ điển, đặc biệt trong các tác phẩm của Engels, Marx và Morris. Trong Tình cảnh giai cấp công nhân ở Anh, Engels đã viết:
“Mỗi bước tiến mới đều mang theo sự mất việc làm, thiếu thốn và khổ sở, và ở một đất nước như Anh, nơi vốn đã có một ‘dân số thặng dư,’ thì bị đuổi việc là điều tồi tệ nhất có thể xảy đến với công nhân. Và nó còn ảnh hưởng làm mất tinh thần, làm tê liệt mà sự bất ổn trong vị trí của anh ta trong đời sống – hệ quả của sự tiến bộ không ngừng của máy móc – phải gây ra cho người công nhân, người vốn đã có số phận đủ bấp bênh mà không cần thêm điều đó!”
Do đó, tình cảnh chung của giai cấp công nhân có thể được mô tả bằng khái niệm bấp bênh, trong đó mối đe dọa bị ném vào “dân số thặng dư” thất nghiệp và bán thất nghiệp chỉ ngày càng gia tăng trong suốt quá trình tích lũy tư bản. Đối với Engels, đây là một phần không thể tách rời của lý thuyết về “đội quân lao động dự trữ thất nghiệp” – nền tảng toàn bộ cho sự bóc lột của giai cấp tư sản đối với giai cấp vô sản. Trong Tuyên ngôn Cộng sản, Marx và Engels cũng đi theo cùng một dòng tư tưởng, viết rằng: “Sự cạnh tranh ngày càng tăng giữa các nhà tư sản, và những cuộc khủng hoảng thương mại do đó gây ra, khiến tiền lương của công nhân ngày càng dao động. Sự cải tiến không ngừng của máy móc, phát triển ngày càng nhanh, khiến cuộc sống của họ ngày càng bấp bênh.”
Tuy nhiên, trong Tư bản, Marx mới phát triển đầy đủ khái niệm về đội quân lao động dự trữ, cùng với đó là một lý thuyết về tính bấp bênh của việc làm và đời sống giai cấp công nhân. Khi giải thích quy luật chung của tích lũy, ông viết:
“Quy luật mà theo đó một lượng ngày càng tăng tư liệu sản xuất có thể được vận hành nhờ sự tiêu phí ngày càng giảm của sức lao động con người, nhờ sự tiến bộ trong năng suất của lao động xã hội, lại đảo ngược hoàn toàn, và được biểu đạt như sau: năng suất lao động càng cao thì áp lực của công nhân lên các phương tiện việc làm càng lớn, và do đó tình trạng tồn tại của họ – tức là việc bán sức lao động của chính họ để gia tăng tài sản xa lạ – lại càng bấp bênh.”
Một vài trang trước đó, ông cũng viết: “Càng sản sinh ra của cải xa lạ, và… càng tăng năng suất lao động của họ, thì chính chức năng của họ như là phương tiện để tư bản tự tăng giá trị lại càng trở nên bấp bênh.”
Marx, trong khi phát triển phân tích này, đã bàn đến “các hình thức tồn tại khác nhau của dân số thặng dư tương đối,” như là sự biểu hiện cụ thể của “quy luật chung của tích lũy.” Ở đây, ông nêu ra bốn hình thức riêng biệt: dân số trôi nổi, tiềm ẩn, trì trệ và nghèo cùng cực. Lớp hỗn loạn nhất của đội quân dự trữ là dân số trôi nổi, xuất hiện cùng lúc với việc áp dụng rộng rãi máy móc và sự tăng cường của quá trình lao động. Ở đây, ngay trung tâm của nền công nghiệp hiện đại, dân số lao động luôn trong trạng thái biến động – không chỉ vì sự cưỡng bức không ngừng của tư bản nhằm giảm nhu cầu lao động, mà còn vì “sự tiêu hao sức lao động diễn ra quá nhanh” đến mức cơ thể con người chỉ có thể chịu đựng được cực hình của công việc trong một thời gian ngắn trước khi trở nên không còn thích hợp cho tư bản.
Các nhà máy, xưởng thủ công và hầm mỏ, vì thế, có xu hướng tìm đến những lớp tươi mới và dễ bị khai thác nhất của đội quân dự trữ – đặc biệt là trẻ em, phụ nữ trẻ và lao động “du mục” (di cư). Bởi tính chất hỗn loạn và căng thẳng của sản xuất công nghiệp hiện đại, các luồng ra vào dân số trôi nổi thường cực kỳ lớn. Công nhân bị “đẩy đi và kéo lại, bị quăng từ chỗ này sang chỗ khác, trong khi đồng thời liên tục có sự thay đổi về giới tính, độ tuổi và kỹ năng của những người lính công nghiệp.”
Đối với Marx, mối quan hệ cuồng loạn này với lao động là đặc trưng phân biệt của công nghiệp hiện đại: sự hấp thụ lao động mới ở một thời điểm, trong giai đoạn mở rộng kinh tế, được đi kèm bởi sự đẩy lùi mạnh mẽ không kém ở thời điểm lịch sử tiếp theo, trong giai đoạn suy thoái. Tuy nhiên, dân số trôi nổi gồm những công nhân vẫn có mối liên hệ nhất định – dù khá bấp bênh – với đội quân lao động chủ động, với một lịch sử việc làm gần đây. Những công nhân này có khả năng sẽ là những người đầu tiên được thuê lại trong một giai đoạn mở rộng.
Lớp tiếp theo của đội quân dự trữ, theo mô tả của Marx, là dân số thặng dư tiềm ẩn. Phần lớn điều này ám chỉ đến những bộ phận của dân số nông nghiệp (hoặc nông thôn) mà vẫn sống theo lối sống bán tự cung tự cấp. Dân số này đóng vai trò như một nguồn lao động tiềm năng khổng lồ cho công nghiệp tư bản (vì thế gọi là “tiềm ẩn”). Ở phạm vi quốc tế, Ireland, như Marx chỉ ra, cấu thành một kho dự trữ lao động khổng lồ, với một dân số tiềm ẩn rất lớn gồm chủ yếu là lao động nông thôn quá đông đúc, luôn sẵn sàng phục vụ công nghiệp Anh. Những điều kiện này là kết quả của sự chinh phục Ireland bởi Anh và lịch sử thuộc địa sau đó. Ông giải thích: “Ireland hiện tại chỉ là một quận nông nghiệp của Anh, tình cờ bị ngăn cách bởi một dải nước rộng khỏi đất nước mà nó cung cấp ngũ cốc, len, gia súc, và tân binh công nghiệp lẫn quân sự.” Tình trạng của những lao động nông thôn ở Anh và Ireland bấp bênh đến mức họ “một chân đã đặt sẵn trong vũng lầy của cảnh nghèo khổ,” khiến họ dễ dàng bị thu hút vào công nghiệp khi cần, và bị loại bỏ không thương tiếc ngay khi không còn hữu ích trực tiếp cho tích lũy tư bản.
Dân số trì trệ, theo Marx, là sự biểu hiện sắc bén nhất của tính bấp bênh đặc trưng cho toàn bộ lực lượng lao động. Lớp này liên tục hấp thụ dòng công nhân bị đẩy ra khỏi công nghiệp hiện đại và nông nghiệp, đại diện cho một “kho chứa vô tận sức lao động dư thừa.” Nó “được đặc trưng bởi thời gian lao động tối đa và tiền lương tối thiểu.” Ở đây, việc làm “cực kỳ bất thường”; và trong chừng mực mà các thành viên của nó có được việc làm, thì mức độ bị bóc lột thường cực kỳ cao. Đây là “yếu tố tự tái sản xuất và tự duy trì của giai cấp công nhân,” vốn bị dồn ép phải dựa hoàn toàn vào chính bản thân mình.
Dân số trì trệ chiếm “một phần tỷ lệ ngày càng lớn trong sự gia tăng chung” của giai cấp công nhân, với sự tăng trưởng “tỷ lệ nghịch với mức lương.” Tình cảnh của công nhân trong dân số trì trệ, Marx viết, “gợi nhớ đến sự sinh sản vô tận của những loài động vật yếu ớt riêng lẻ và luôn bị săn đuổi.” Ở đây, Marx đã tiên đoán nổi tiếng về khái niệm “chuyển tiếp dân số,” lập luận rằng sự gia tăng dân số, trái ngược với giả định của Malthus, giảm chứ không tăng khi tiền lương tăng. Liên quan đến dân số trì trệ, ông chỉ ra rằng lao động thời vụ, đặc biệt ở Ireland, là “hình thức lao động làm thuê bấp bênh nhất trong tất cả,” bởi vì nó thường đòi hỏi phải đi xa mới có việc, làm việc nhiều giờ với mức lương rẻ mạt, hoàn toàn không có sự bảo đảm nào, dẫn đến bệnh tật và nghèo đói.
Trung tâm của những điều kiện cấu trúc chi phối dân số trì trệ là sự phát triển của “cái gọi là công nghiệp gia công tại gia” hoặc “công nghiệp gia công hiện đại,” song song với “công nghiệp thủ công hiện đại.” Công nghiệp gia công hiện đại chủ yếu diễn ra tại nhà của công nhân hoặc trong các xưởng nhỏ, ví dụ như các cơ sở làm ren. Đây là một dạng của cái mà Marx gọi là “làm thuê gia công” hoặc lao động phụ thuộc vào hệ thống nhà máy. Trong công nghiệp gia công hiện đại, ông viết, sự bóc lột “còn trơ trẽn hơn cả trong công nghiệp thủ công hiện đại,”
“bởi vì sức kháng cự của công nhân suy giảm khi họ bị phân tán; bởi vì một loạt những kẻ ký sinh ăn cướp chen vào giữa ông chủ thực sự và người công nhân mà ông ta thuê; bởi vì công nghiệp gia công luôn phải cạnh tranh hoặc với hệ thống nhà máy, hoặc với thủ công trong cùng ngành sản xuất; bởi vì sự nghèo khổ tước đi của công nhân những điều kiện thiết yếu nhất cho lao động, như không gian, ánh sáng và thông gió; bởi vì việc làm ngày càng bất thường; và cuối cùng, bởi vì trong những chỗ trú ẩn cuối cùng này của đám đông bị công nghiệp quy mô lớn và nông nghiệp làm cho ‘dư thừa,’ thì cạnh tranh việc làm tất yếu đạt đến mức tối đa.”
Điều kiện lao động đặc biệt khủng khiếp trong công nghiệp gia công hiện đại bởi vì nó lấy dân số thặng dư trì trệ làm cơ sở. Ở đây có thể tìm thấy một sự dư thừa lao động rẻ mạt, dễ khai thác , phần lớn là phụ nữ và trẻ em. Tính bấp bênh của công nhân trong công nghiệp gia công hiện đại được phản ánh ở chỗ họ bị làm cho trở nên “dư thừa dưới hình thức bị trả lương thấp và làm việc quá sức” đến mức bị siêu bóc lột. Ngành công nghiệp gia công hiện đại điển hình chủ yếu gồm phụ nữ và các cô gái trẻ, làm việc trong các cơ sở may mặc như những “người làm gia công” phụ thuộc vào sản xuất thủ công hiện đại. Họ “luôn luôn bị trả thấp hơn mức lương tối thiểu.”
Marx đã chỉ ra một xưởng may áo ở Londonderry có một nghìn công nhân trong nhà máy và thêm “9.000 người làm gia công rải rác khắp các vùng nông thôn.” Những người làm gia công này được thuê trong các xưởng nhỏ phân tán khắp nơi, làm suy yếu khả năng tổ chức tập thể và kháng cự. Điều này có xu hướng làm trầm trọng thêm “khía cạnh sát hại của nền kinh tế này,” nổi tiếng nhất là các “ngôi nhà của bà chủ” trong ngành sản xuất quần áo. “Trong các doanh trại Anh, không gian quy định dành cho mỗi binh sĩ là 500 đến 600 feet khối, và trong các bệnh viện quân đội là 1.200 feet khối. Nhưng trong những chỗ chuồng trại hoàn thiện kia thì mỗi người chỉ có từ 67 đến 100 feet khối. Đồng thời, oxy trong không khí còn bị đèn khí đốt tiêu thụ.” Việc trẻ em bắt đầu làm việc từ 6 tuổi và làm việc 14 giờ mỗi ngày (hoặc nhiều hơn), “khi việc làm bận rộn,” không phải là hiếm.
Cái mà Marx gọi là “công nghiệp hiện đại” hay hệ thống nhà máy ngày càng nằm dưới sự điều chỉnh của các Đạo luật Nhà máy, trong khi các ngành sản xuất gắn liền với công nghiệp gia công hiện đại (và thủ công hiện đại), vốn dân số trì trệ phụ thuộc để có được việc làm vô cùng bấp bênh, thì vẫn “không có giới hạn pháp lý nào đối với sự bóc lột,” không bị “ràng buộc bởi các quy định pháp luật.” Vì thế, nó tương ứng với “nền kinh tế phi chính thức” theo cách nói ngày nay. Ở đây, Marx nhấn mạnh, vẫn còn có những điều kiện nơi trẻ em bị buộc phải làm việc từ 4 giờ sáng đến nửa đêm. Ông dẫn lại Daily Telegraph rằng trong những ngành này vẫn còn có cuộc đấu tranh để giới hạn ngày làm việc ở mức 18 giờ! Khi khảo sát các ngành sản xuất đa dạng như gốm sứ, làm giấy dán tường, làm bánh mì và làm ren, Marx kết thúc bằng việc bàn về điều kiện của những người thợ may áo váy ở London, điều này trùng lặp với phần thảo luận sau này của ông về công nghiệp gia công hiện đại. Ông kể lại câu chuyện, nổi tiếng vào thời điểm đó, về Mary Anne Walkley, một cô gái 20 tuổi đã chết sau khi làm việc liên tục hơn 26 giờ, trong một trong những cơ sở may mặc được coi là danh giá nhất ở London, dưới những điều kiện thiếu ngủ, thiếu oxy và thiếu không gian. Walkley bị buộc phải làm việc nhiều giờ để sản xuất váy cho một buổi dạ hội do Công chúa xứ Wales tổ chức. Ngay cả Morning Star, cơ quan ngôn luận của những người tự do thương mại, cũng phải lên tiếng tuyên bố rằng “những nô lệ da trắng của chúng ta, những người bị lao động đến chết trong mồ, phần lớn chỉ âm thầm héo tàn và chết đi.”
Như Joseph Fracchia đã lưu ý, sự bóc lột sức lao động dưới chủ nghĩa tư bản, với đội quân dự trữ làm điểm tựa, “không phải là trừu tượng mà được cắm rễ một cách cụ thể vào những cơ thể cá nhân, nó là [đối với Marx], ‘sự quái dị của một quần thể công nhân đau khổ bị giữ làm dự trữ cho những nhu cầu bóc lột thay đổi của tư bản.’ … Chủ nghĩa tư bản tái sản xuất nguồn cung lao động của nó bằng cách duy trì, qua nhiều thế hệ, một giai cấp ‘những cá nhân túng thiếu.’ Và sự túng thiếu suốt đời là một cuộc tấn công phối hợp vào cơ thể và năng lực thể xác của những người thiếu thốn.” Tính bấp bênh của việc làm dưới chủ nghĩa tư bản mở rộng đến chính điều kiện làm việc, và đến việc tiêu hao nền tảng vật chất của sự tồn tại con người.
Dân số trì trệ, đối với Marx, chuyển dần thành dân số hoàn toàn nghèo cùng cực , “tầng trầm tích thấp nhất” của dân số thặng dư tương đối. Lớp nghèo cùng cực này, bao gồm cả những bộ phận thấp nhất của dân số thặng dư tương đối và những yếu tố đã vượt qua mọi khả năng làm việc, đè nặng lên đội quân công nghiệp dự trữ và giai cấp công nhân nói chung. Phần lớn nhất của lớp này sống “trong lĩnh vực của [tình trạng nghèo đói chính thức]” , phần còn lại gồm “những kẻ lang thang, tội phạm, gái mại dâm, nói ngắn gọn là giai cấp vô sản lưu manh thực sự.” Các cấp độ của “tình trạng nghèo đói chính thức” mà Marx xác định bao gồm:
Thứ nhất, những người có khả năng làm việc. Chỉ cần nhìn sơ qua vào các thống kê về tình trạng nghèo đói ở Anh là thấy rằng số lượng người nghèo tăng lên trong mỗi cuộc khủng hoảng thương mại, và giảm đi trong mỗi đợt phục hồi.
Thứ hai, trẻ mồ côi và trẻ em nghèo. Đây là những ứng viên cho đội quân công nghiệp dự trữ, và trong thời kỳ phồn vinh lớn, chẳng hạn như năm 1860, chúng nhanh chóng và với số lượng lớn được đưa vào đội quân công nhân đang hoạt động.
Thứ ba, những kẻ sa đọa, rách rưới, và những người không có khả năng làm việc, chủ yếu là những người gục ngã trước sự bất lực trong việc thích nghi, một sự bất lực bắt nguồn từ sự phân công lao động; những người đã sống quá tuổi trung bình của công nhân; và những nạn nhân của công nghiệp, con số của họ tăng lên cùng với sự phát triển của máy móc nguy hiểm, hầm mỏ, nhà máy hóa chất, v.v., những người bị cụt, ốm yếu, góa phụ, v.v. Nghèo đói là bệnh viện của đội quân lao động đang hoạt động và là gánh nặng chết chóc của đội quân công nghiệp dự trữ. Sự sản sinh ra nó gắn liền với sự sản sinh của dân số thặng dư tương đối, sự tất yếu của nó bao hàm trong sự tất yếu của họ; cùng với dân số thặng dư, nghèo đói tạo thành một điều kiện của sản xuất tư bản và của sự phát triển tư bản của cải.
Trong Tình cảnh giai cấp công nhân ở Anh, Engels nhấn mạnh rằng những tầng lớp nghèo nhất của giai cấp công nhân buộc phải rao bán bất cứ thứ gì họ có thể, “bán rong và bán dạo” ở mọi góc phố, cầm cự một cuộc sống bấp bênh bằng cách bán “dây giày, dây nịt áo nịt ngực, dây đeo, dây gai, bánh ngọt, cam, đủ loại vật dụng nhỏ,” cũng như “que diêm… sáp niêm phong, và các hỗn hợp chế tạo sẵn để nhóm lửa.” Những “người làm thuê vặt” khác thì đi khắp đường phố tìm bất cứ công việc nhỏ nào: vài giờ hay một ngày làm công. Đó chính là dạng nền kinh tế phi chính thức vốn ở đâu cũng gắn liền với cảnh nghèo đói.
Marx dựa vào số liệu thống kê dân số của Anh và xứ Wales để chỉ ra rằng tỷ lệ phụ nữ lao động làm việc chính thức cao hơn nhiều so với nam giới, phần lớn bởi vì phụ nữ chiếm tới 85 phần trăm trong tổng số người giúp việc gia đình. Số lượng người giúp việc gia đình còn vượt quá cả công nhân nhà máy dệt (đa số là phụ nữ và trẻ em) và công nhân kim loại (ít người hơn ngành dệt, nhưng chủ yếu là nam giới). Sự bấp bênh, theo nghĩa là trở thành một phần của “quân dự bị lao động,” do đó càng dễ rơi vào nam giới, những người vốn truyền thống có mức lương cao hơn phụ nữ khi có việc, nhưng lại ngày càng bị coi là không thể thuê được bởi nền công nghiệp tư bản luôn tìm kiếm lao động rẻ hơn , và bởi tầng lớp giàu có vốn chủ yếu muốn thuê nữ giới làm giúp việc.
Chủ nghĩa tư bản không giới hạn trong một quốc gia riêng lẻ mà là một hệ thống sản xuất toàn cầu. Sự bóc lột, theo quan điểm của Marx, ngày càng mang tính chất quốc tế, bao trùm cả vùng ngoại vi rộng lớn thông qua chủ nghĩa thực dân. “Một sự phân công lao động mới và mang tính quốc tế nảy sinh, phù hợp với yêu cầu của các nước công nghiệp chủ yếu, và nó biến một phần thế giới thành cánh đồng sản xuất nông nghiệp chủ yếu để cung cấp cho phần còn lại, vốn vẫn giữ vai trò là lĩnh vực công nghiệp vượt trội.” Ông chỉ ra rằng “tỷ suất lợi nhuận nói chung cao hơn [ở ngoại vi] do mức độ phát triển thấp hơn, và vì thế mức độ bóc lột lao động , thông qua việc sử dụng nô lệ, lao dịch, v.v.,cũng cao hơn.” Nếu ở trung tâm của hệ thống tư bản, sinh mạng con người đã rẻ rúng và dễ bị vứt bỏ, thì ở vùng ngoại vi thuộc địa, điều đó còn đúng hơn nữa, nơi mà điều kiện của tích lũy nguyên thủy (sơ khai) vẫn tiếp diễn. Trong mô tả của Marx về “sự hình thành của nhà tư bản công nghiệp,”
“việc tận diệt, nô dịch và chôn vùi trong hầm mỏ dân bản địa… khởi đầu của cuộc chinh phục và cướp bóc Ấn Độ, và việc biến châu Phi thành khu dự trữ cho cuộc săn buôn da đen vì mục đích thương mại , tất cả những điều ấy chính là đặc trưng cho buổi bình minh của kỷ nguyên sản xuất tư bản. Những hoạt động “thư thản” ấy là những khoảnh khắc chủ chốt của sự tích lũy nguyên thủy.”
Học thuyết của Marx về sự bấp bênh của giai cấp công nhân sau đó được phát triển thêm bởi nhà lý luận Marxist xuất sắc nhất của nước Anh cuối thế kỷ XIX, nghệ sĩ, nhà văn và nhà xã hội chủ nghĩa nổi tiếng William Morris. Chính Morris, hơn bất cứ nhà tư tưởng nào khác trong những năm 1880 và 1890, đã kế thừa lý thuyết của Marx về “quân dự bị lao động,” thể hiện chủ yếu qua sự bấp bênh ngày càng tăng của công nhân. Như ông đã tuyên bố năm 1883 trong tiểu luận Nghệ thuật dưới chế độ tài phiệt, sự suy đồi của quá trình lao động dưới chủ nghĩa tư bản, cùng với những điều kiện hợp đồng thuần túy tiền bạc mà theo đó việc làm được cung cấp hay từ chối, đã tạo nên tình trạng cho công nhân vô cùng “bấp bênh.” Tương tự, trong bài giảng nổi tiếng Công việc hữu ích so với Lao dịch vô ích, lần đầu tiên đọc năm 1883 và sau đó được đưa vào cuốn Dấu hiệu của sự thay đổi (1888), Morris viết về “sự bấp bênh của đời sống trong giới công nhân” do xu hướng “gia tăng số lượng ‘quân dự bị lao động.’” Những khoản đóng góp tiền bạc mà công nhân bỏ vào các công đoàn là một gánh nặng thêm mà họ phải chi từ tiền lương của mình chỉ để chống lại “sự bấp bênh của… việc làm,” mà công đoàn là phòng tuyến duy nhất.
Morris coi vấn đề này quan trọng đến mức, trong bài giảng năm 1887 có tên Điều mà những người xã hội chủ nghĩa mong muốn, ông đã có bước đi khác thường , hiếm khi xuất hiện trong các bài giảng của ông , đó là ghi thêm từ “bấp bênh” bên lề, cho thấy đó là một chủ đề trọng yếu cần phát triển thêm. Sau này, trong bài giảng năm 1894 có tên Điều hiện tồn: Điều nên thay đổi: Điều sẽ xảy ra, Morris lập luận rằng “mức lương cao hơn và công việc ít bấp bênh hơn, nhiều thời gian rảnh hơn, nhiều phần hưởng lợi ích công cộng hơn” chính là những yêu sách chủ yếu của công nhân, nhưng những mục tiêu đó chỉ có thể đạt được thông qua “những khởi đầu của Chủ nghĩa xã hội.” Với Morris, chính sự bất ổn của đời sống giai cấp công nhân , cuộc vật lộn để giữ được hoặc tìm được việc làm, mối đe dọa thất nghiệp và thiếu việc, sự đau khổ tột cùng về thể xác và tinh thần, sự suy đồi và thậm chí là cái chết do điều kiện lao động bóc lột, cùng sự hiện diện khắp nơi của cảnh khốn cùng , đã cấu thành bản chất của đời sống công nhân. Chính sự bất an, suy đồi và lao dịch vô ích ấy đã phá hoại mọi tiềm năng tự do của con người.
Đội quân dự bị toàn cầu trong thời đại tình trạng bấp bênh toàn cầu
Nền tảng cấu trúc của khái niệm về tình trạng bấp bênh của người lao động theo Marx là đội quân dự bị lao động, điểm tựa của quy luật chung về tích lũy tư bản chủ nghĩa. Trái với cách sử dụng “tình trạng bấp bênh” hay “bấp bênh” ngày nay như điều mà Seymour gọi là một “meme văn hóa”, lý thuyết Marxist thay vào đó đưa ra một cách tiếp cận lý thuyết tích hợp và một quan điểm khoa học về sự bất an và bị bóc lột của giai cấp công nhân, hướng tới thay đổi xã hội mang tính cách mạng. Ở đây, khái niệm về giai cấp vô sản không được xem là đối lập với tình trạng bấp bênh,để rồi nảy sinh một hạng mục hoàn toàn mới là “precariat”; đúng hơn, bấp bênh là một yếu tố mấu chốt trong sự tồn tại và đấu tranh của giai cấp công nhân.
Trong những năm ngay sau Chiến tranh Thế giới thứ Hai, nền kinh tế thế giới tư bản, tập trung ở Hoa Kỳ, Tây Âu và Nhật Bản, đã trải qua một thời kỳ mở rộng kinh tế nhanh chóng dựa trên: (1) quyền bá chủ không thể tranh cãi của Hoa Kỳ; (2) làn sóng ô tô hoá thứ hai ở Hoa Kỳ; (3) việc tái thiết các nền kinh tế bị tàn phá bởi chiến tranh ở châu Âu và Nhật Bản (và ô tô hoá tại đó); (4) sự tăng trưởng ồ ạt của nỗ lực bán hàng dựa trên Madison Avenue; và (5) hai cuộc chiến khu vực ở châu Á, cùng xu hướng quân sự hoá nói chung gắn với Chiến tranh Lạnh. Số lượng việc làm cao hơn, đặc biệt trong các năm Chiến tranh Triều Tiên và Việt Nam, cùng với đàn áp trong nước ở Hoa Kỳ, và nhà nước phúc lợi (nhất là ở châu Âu, nơi cần thiết để đối trọng với thách thức do Liên Xô và Đông Âu đại diện), đã tạo nên một thời kỳ hoà hoãn tương đối giữa tư bản độc quyền và các công đoàn doanh nghiệp bảo thủ. Các tập đoàn đa quốc gia xuất hiện trong giai đoạn này như những tác nhân lớn trên vũ đài thế giới. Người lao động ở trung tâm của hệ thống gián tiếp hưởng lợi từ hệ thống đế quốc thế giới.
Nền kinh tế Hoa Kỳ đạt đỉnh vào cuối thập niên 1960 và đầu thập niên 1970, khi các yếu tố bên ngoài vốn đã chống đỡ cho nó dần phai nhạt. Sau đó, nền kinh tế bước vào một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng (tương ứng với sự kết thúc của Chiến tranh Việt Nam), dẫn tới sự chậm lại có tính dài hạn của tăng trưởng kinh tế và rốt cuộc trở thành tình trạng đình trệ hoàn toàn. Đến cuối thập niên 1970, tư bản đã khởi động quá trình tái cơ cấu kinh tế toàn cầu, cắt giảm chi tiêu cho nhà nước phúc lợi, tấn công các công đoàn, và những biện pháp khác, mở màn cho cuộc chiến giai cấp gia tăng mà về sau được gọi là chủ nghĩa tân tự do.
Trong thập niên 1980, các tập đoàn và cá nhân giàu có đi tìm nơi trú ẩn cho lượng tư bản thặng dư của mình trong bối cảnh tích lũy thừa và bão hòa thị trường, nơi mà đầu tư sản xuất không còn có vẻ khả thi, đã ngày càng lao vào đầu cơ, trước hết trong các vụ sáp nhập doanh nghiệp, rồi sau đó trong hệ thống tài chính nói chung. Lãi suất giảm, do tỉ suất đầu tư yếu so với thặng dư kinh tế sẵn có, đã khuyến khích vay mượn cho các mục đích thuần túy đầu cơ. Khu vực tài chính đáp lại bằng cách tạo ra một loạt vô tận các công cụ tài chính “kỳ lạ” xẻ nhỏ và băm vụn rủi ro, tất cả dựa trên núi nợ ngày càng chất chồng. Sự tài chính hoá của nền kinh tế Hoa Kỳ và thế giới trong kỷ nguyên mới của tư bản độc quyền–tài chính đã tạo ra một mức mở rộng hạn chế. Tuy thế, chẳng điều gì trong số đó ngăn được tình trạng đình trệ kinh tế ngày càng sâu ở trung tâm của hệ thống tư bản thế giới. Hệ quả là tốc độ tăng trưởng kinh tế trong “bộ ba” Hoa Kỳ/Canada, châu Âu và Nhật Bản đã suy giảm theo từng thập niên từ thập niên 1960 đến nay. Trong nền kinh tế toàn cầu hoá mới do các tập đoàn đa quốc gia thúc đẩy, có một “chênh lệch lao động toàn cầu” được theo đuổi, theo đó các công ty áp dụng mức lương thấp hơn rất nhiều ở ngoại vi, chuyển dịch sản xuất xuống Nam toàn cầu, nơi đến năm 2008 chiếm khoảng 70% sản lượng công nghiệp thế giới, so với khoảng 50% vào năm 1980
Sự dịch chuyển mang tầm lục địa này đã gây sức ép lên tiền lương thực tế của người lao động ở Bắc bán cầu, nơi công nhân đối mặt với thất nghiệp cao hơn và cạnh tranh tăng lên từ lao động lương thấp ở phương Nam. Đội quân dự bị tiềm ẩn của lao động di cư từ các quốc gia nghèo (ví dụ, công nhân Mexico và Trung Mỹ trong trường hợp Hoa Kỳ, công nhân Thổ Nhĩ Kỳ trong trường hợp Đức, và công nhân Algeria trong trường hợp Pháp) đã tạo ra xung đột thêm trong nội bộ giai cấp công nhân cả trong nước lẫn quốc tế, tương tự như những làn sóng mới của các cuộc chiến tranh đế quốc ở Trung Đông, Nam Tư cũ và Bắc Phi trong thập niên 1990 và những thập niên mở đầu thế kỷ này (được làm cho khả thi nhờ việc Liên Xô tan rã). Sự sụp đổ của các xã hội Xô viết và việc Trung Quốc tái hội nhập vào thị trường thế giới tư bản đã đưa hàng trăm triệu lao động bổ sung vào đội quân dự bị toàn cầu, tạo thành một kỷ nguyên toàn cầu hoá mới. Tất cả những điều đó đã góp phần gỡ bỏ “mặt sàn” đối với tiền lương và điều kiện lao động của công nhân trên toàn thế giới. Nói chung, giai cấp công nhân toàn cầu và các bộ phận khác nhau của nó nhanh chóng bị cuốn vào một cuộc chạy đua xuống đáy, một thực tế ắt hẳn tạo ra một cảm thức bấp bênh mới.
Cuộc Khủng hoảng Tài chính Lớn, khởi phát ở Hoa Kỳ vào năm 2007 và lan rộng trong các năm 2008 và 2009 ra toàn bộ nền kinh tế thế giới, đã dẫn đến sự gia tăng lớn về thất nghiệp và tái cơ cấu. Sự gia tăng khổng lồ của việc làm bán thời gian, tạm thời và linh hoạt, cũng như thất nghiệp và thiếu việc làm nói chung, đã tạo nên tình trạng cấu trúc mới, nguy hiểm hơn của thị trường lao động quốc tế. Việc đa số các nhà phân tích, ngay cả ở cánh tả, không hiểu điều này trong khuôn khổ quy luật chung về tích lũy của Marx, đã gây ra sự rối loạn to lớn. Khoa học xã hội chính thống theo đặc trưng đã coi các quan hệ bóc lột hơn giữa lao động và tư bản là những dị thường không có quan hệ bản chất với hệ thống và không có cơ sở lịch sử hay lý thuyết trước đó, trong khi các nhà lý thuyết cánh tả hậu hiện đại, mê mẩn các cấu trúc diễn ngôn thuần túy, cũng chẳng làm khá hơn bao nhiêu.
Ngay trong kinh tế chính trị Marxist, việc trở lại với phân tích đội quân dự bị lao động của Marx trong giai đoạn này là một phần của nỗ lực nhằm hiểu cả sự tái xuất hiện của đình trệ lẫn tác động của nó lên giai cấp công nhân và lên quá trình quốc tế hoá của tư bản độc quyền. Toàn cầu hoá sản xuất dựa trên các tập đoàn đa quốc gia bắt đầu từ cuộc khủng hoảng kinh tế thập niên 1970,ngay cả trước khi tình trạng đình trệ kinh tế bám rễ hoàn toàn. Tuy vậy, với một số nhà lý thuyết cấp tiến có tầm nhìn, các mối liên hệ giữa đình trệ, quốc tế hoá tư bản, và những điều kiện nguy hiểm hơn đối với lao động toàn cầu đã hiển hiện ngay từ đầu.
Những phát triển lý thuyết quan trọng nhất trong phân tích điều kiện lao động và mối quan hệ của chúng với tích lũy xuất hiện trong thập niên 1970, trong công trình mang tính tiên phong của Harry Braverman và Stephen Hymer. Braverman nổi tiếng khi dựa vào phân tích quá trình lao động của Marx để cho thấy sự xuống cấp của lao động dưới chủ nghĩa tư bản độc quyền. Nhưng ông cũng tiến hành nghiên cứu kỹ lưỡng về cơ cấu và thành phần của giai cấp công nhân ở Hoa Kỳ, cả đạo quân lao động hiện dịch lẫn đội quân dự bị lao động. Hymer nổi lên như nhà lý thuyết hàng đầu về các tập đoàn đa quốc gia, xây dựng phân tích của mình trên lý thuyết tổ chức công nghiệp và lý thuyết tư bản độc quyền. Tuy nhiên, ông tiếp tục mở rộng công trình của mình để khảo sát các tác động lên phân công lao động quốc tế, dựa vào quy luật chung về tích lũy của Marx.
Năm 1975, Braverman chỉ ra sự tăng trưởng nhanh của đội quân dự bị lao động, cả ở Hoa Kỳ lẫn nơi khác:
“Điều nổi bật nhất hiện ra từ việc xem xét thống kê thất nghiệp [ở Hoa Kỳ] từ Chiến tranh Thế giới thứ Hai đến hiện tại là xu thế mở rộng dần dần nhưng dai dẳng của số lao động thất nghiệp được thống kê chính thức…. Tỷ lệ thất nghiệp 5 đến 6 phần trăm đặc trưng cho những năm suy thoái 1949–1950 nay đã trở thành tỷ lệ của thời kỳ thịnh vượng của thập niên bảy mươi, tỷ lệ mà chúng ta sẽ rất mừng nếu có được.”
Tuy nhiên, Braverman lập luận rằng những hạn chế trong dữ liệu sẵn có khiến cho các con số chỉ mang tính chỉ báo thô sơ về những gì thực sự đang diễn ra, bởi phần lớn đội quân lao động dự bị (số lượng khổng lồ những người làm việc bán thời gian đang tìm việc toàn thời gian, lao động tạm thời, người thất nghiệp nản lòng, người gắn bó lỏng lẻo với thị trường lao động, và dân số không hoạt động về kinh tế) vẫn không được tính trong tỷ lệ thất nghiệp chính thức. Chính sự tăng trưởng nhanh chóng của toàn bộ đội quân lao động dự bị này đã làm suy yếu nghiêm trọng các khu vực lao động có mức lương tương đối cao (và thậm chí cả tầng lớp trung lưu), tạo ra một cảm giác bấp bênh lan rộng hơn. Ngày càng có nhiều công nhân bị hút vào các lĩnh vực dịch vụ và bán lẻ có mức lương thấp.
Trong một phân tích thống kê chi tiết, Braverman chỉ ra rằng vào năm 1970, khoảng 69% lực lượng lao động có sẵn ở Hoa Kỳ (bao gồm cả đội quân lao động đang hoạt động và các thành phần liên quan của đội quân dự bị) thuộc sáu ngành nghề lao động phi nông nghiệp cơ bản: thợ thủ công, nhân viên văn phòng, công nhân nhà máy, nhân viên bán hàng, nhân viên dịch vụ, và lao động phi nông nghiệp. Phân tích gần đây cho thấy con số này vẫn giữ ổn định đáng ngạc nhiên hơn bốn mươi năm sau đó (tính đến những thay đổi nghề nghiệp và quá trình vô sản hóa các ngành nghề mới), với giai cấp công nhân chiếm khoảng 69% lực lượng lao động có sẵn ở Hoa Kỳ vào năm 2011. Tuy nhiên, chất lượng việc làm đã giảm sút nghiêm trọng, với nhiều công nhân hơn trong các ngành có lương thấp, việc làm bán thời gian, tạm thời, và bấp bênh. Tất cả điều này có nghĩa là mức độ bấp bênh của lực lượng lao động, cùng với sức kéo đi xuống của đội quân dự bị đối với toàn bộ lao động, đang gia tăng.
Năm 1975, trong bài “Chính trị quốc tế và Kinh tế quốc tế: Một cách tiếp cận cấp tiến,” Hymer phát triển một phương pháp tiếp cận về sự phân công lao động quốc tế song song với phân tích của ông về sự phát triển của các tập đoàn đa quốc gia. Dựa trên “quy luật chung của tích lũy” của Marx, Hymer cho rằng hai yếu tố chủ yếu cho phép tư bản khai thác lao động là: (1) sự thay đổi công nghệ, vốn đẩy công nhân ra khỏi việc làm và làm tăng hàng ngũ đội quân lao động dự bị; và (2) sự hấp thụ dân số dư thừa tiềm tàng ở nông thôn, mở rộng tổng lực lượng lao động sẵn có cho sự bóc lột. Thông qua hai phương tiện này, mà Hymer gọi là “đội quân lao động dự bị” và “đội quân dự bị bên ngoài,” tư bản có thể gia tăng nguồn cung lao động, phù hợp với luận điểm cơ bản của Marx rằng “sự tích lũy tư bản, do đó, là sự nhân lên của giai cấp vô sản.”
Hymer viết:
“Trên giai cấp vô sản là một tầng lớp sĩ quan khổng lồ gồm các nhà quản lý, kỹ thuật viên và quan liêu để tổ chức họ và chế ngự sự kháng cự của họ bằng cách duy trì sự chia rẽ. Dưới họ là một hồ chứa của những người thất nghiệp, thiếu việc làm, và bị trả lương thấp, liên tục được tiếp sức bởi sự thay đổi công nghệ và sự mở rộng của những vùng đất mới, làm suy yếu vị thế của họ và kìm hãm sự phát triển của họ hướng tới ý thức giai cấp. Đội quân dự bị này buộc tầng lớp lao động quý tộc phải tiếp tục làm việc và giữ cho họ trung thành với hệ thống tư bản vì sợ rơi khỏi vị trí ưu thế. Theo bản chất của sự vật, những tầng lớp khác nhau này thường đến từ các vùng khác nhau trong một quốc gia, các nhóm chủng tộc hoặc sắc tộc khác nhau, và các nhóm tuổi, giới tính khác nhau. Do đó, những rạn nứt cạnh tranh giữa người lao động thường phản ánh các đường ranh của chủng tộc, tín ngưỡng, màu da, tuổi tác, giới tính và nguồn gốc quốc gia, khiến cho ý thức giai cấp công nhân trở nên khó đạt được hơn.”
Hymer nhấn mạnh rằng ý thức giai cấp của công nhân, trích dẫn Tư bản của Marx, đòi hỏi họ phải nhận ra rằng khi họ tạo ra, thông qua lao động của mình, sự tích lũy của tư bản, họ chỉ đang gia tăng sức mạnh kinh tế của tư bản so với chính mình, thông qua tác động của đội quân lao động dự bị, do đó khiến cho tình cảnh của họ “trở nên bấp bênh hơn.” Một khi nhận thức này được hình thành, vai trò cách mạng của công nhân phụ thuộc vào việc họ nỗ lực xóa bỏ cạnh tranh và bất bình đẳng trong hàng ngũ của mình, đồng thời hướng tới một sự giải phóng con người rộng lớn hơn. Ông đặt hy vọng rằng giai cấp lao động, mặc dù ngày càng bị chia rẽ bởi sự phân công lao động quốc tế mới và bởi các bản sắc xã hội khác nhau, và bị mắc kẹt trong tình trạng bấp bênh gia tăng,vẫn sẽ đấu tranh để loại bỏ sự cạnh tranh trong hàng ngũ của mình. Nhờ đó, nó có thể thống nhất “ở những cấp độ ngày càng cao hơn cho đến khi đạt được một viễn cảnh lịch sử toàn cầu vượt xa tư bản và thay thế chủ nghĩa tư bản bằng chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, sự thống nhất này là một quá trình kéo dài.”
Ngày nay, phạm vi hoạt động của “quy luật chung của tích lũy tư bản” của Marx đã bao trùm toàn thế giới. Cuộc đấu tranh của giai cấp lao động, như Marx, Engels và Morris đã xác định trong thế kỷ XIX, và Hymer nhận thức sâu sắc hơn vào cuối thế kỷ XX, vì thế phải mang tính quốc tế. Sự bấp bênh của lao động lên xuống theo sự dao động của đội quân lao động dự bị toàn cầu. Đội quân dự bị bên ngoài, dù vẫn còn khổng lồ, không phải là vô tận, và đang giảm dần, buộc tư bản phải thay thế lao động hiện có nếu muốn tiếp tục tích lũy. Trong khi đó, hàng tỷ người,như Fred Magdoff đã giải thích trong Một sự tồn tại bấp bênh: Số phận của hàng tỷ người, và như Mike Davis trình bày trong Hành tinh của những khu ổ chuột, đang tập trung tại các trung tâm đô thị lớn của Nam bán cầu, nơi mà sự bấp bênh tuyệt đối là hiện thực, với gần một phần ba công nhân sống với chưa đến hai đô la mỗi ngày.
Chỉ có một Quốc tế Lao động Mới có thể đối mặt với những điều kiện thảm khốc mà vô số người đang phải đối mặt, bao gồm sự tàn phá kinh tế trên khắp thế giới, chủ nghĩa quân phiệt và chiến tranh đang gia tăng, cùng với sự rạn nứt sinh thái toàn cầu. Như Hymer đã viết về xu hướng của trật tự đế quốc trong thời ông: “Cấu trúc của Đế quốc Mỹ, thứ từng duy trì một dạng trật tự nào đó trong quá khứ, hiện đang tan rã, và một cuộc đấu tranh kiểu Hobbes, nơi mọi người chống lại nhau, có vẻ đang xuất hiện ở cấp độ thế giới.” Trong hoàn cảnh này, một xã hội xã hội chủ nghĩa, hướng tới phúc lợi chung, trở nên cấp thiết, không chỉ vì một thế giới tốt đẹp hơn, mà ngày càng là vì sự tồn tại của chính loài người.
Chúng ta có thể thấy ý nghĩa của đội quân lao động dự bị toàn cầu và nguồn gốc của sự bấp bênh đối với phần lớn dân số thế giới bằng cách sử dụng dữ liệu của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), cơ quan đã sử dụng các phân loại tương ứng với các tầng lớp của đội quân dự bị mà Marx đã xác định. Biểu đồ 1 thể hiện “Các tầng lớp của giai cấp công nhân toàn cầu” từ năm 1991 đến 2015. Có thể thấy rằng đội quân lao động dự bị toàn cầu, ngay cả theo các định nghĩa thận trọng, chiếm khoảng 60% dân số lao động sẵn có trên thế giới,cao hơn nhiều so với người đang có việc làm (gồm công nhân ăn lương và tiểu chủ). Năm 2015, theo số liệu của ILO, đội quân dự bị toàn cầu gồm hơn 2,3 tỷ người, so với khoảng 1,66 tỷ người trong tổng số người có việc làm, trong đó nhiều người cũng làm việc trong điều kiện bấp bênh. Số người thất nghiệp chính thức (tương ứng với “dân số trôi nổi” theo Marx – “Global reserve army”) chiếm gần 200 triệu. Khoảng 1,5 tỷ công nhân được xếp vào nhóm “việc làm bấp bênh” (liên quan đến “dân số trì trệ” của Marx – “Vulnerable”), bao gồm người làm việc tự do (lao động phi chính thức và lao động tự cung tự cấp ở nông thôn), cũng như “người lao động gia đình” (lao động trong hộ gia đình). Thêm vào đó là khoảng 630 triệu người trong độ tuổi lao động chính (25–54 tuổi) được phân loại là không hoạt động về kinh tế. Đây là một nhóm dị thể, nhưng chắc chắn phần lớn bao gồm những người trong độ tuổi lao động chính thuộc dân số bị bần cùng hóa.
Biểu đồ 1. Thành phần của giai cấp lao động toàn cầu, 1991–2015

Nguồn: “Table R3. Status in Employment,” “Table R5. Unemployment Rate” (World and Regional Aggregates), và “Table 13. Inactivity” (Standard Query). International Labour Organization (ILO), Key Indicators of the Labour Market (KILM), Ấn bản thứ 9 (Geneva, tháng 11 năm 2015).
Ghi chú: Vì các số liệu về dân số không hoạt động được thống kê theo từng quốc gia, chúng nên được xem là mức ước lượng thấp, do thiếu dữ liệu cho một số quốc gia và năm. Trong cơ sở dữ liệu KILM ấn bản thứ 9, tổng số quốc gia có dữ liệu về dân số không có việc làm là 193.
Tuy nhiên, những con số này đánh giá thấp nghiêm trọng quy mô đầy đủ của đội quân lao động dự bị toàn cầu (theo khái niệm của Marx), bởi vì những người làm việc bán thời gian, tạm thời, và bấp bênh được tính trong số lao động có việc làm trong dữ liệu của ILO, do đó không phản ánh điều kiện ngày càng bấp bênh của nhiều người chỉ có mối quan hệ lao động tạm bợ và không ổn định. Tỷ lệ công nhân toàn cầu có thu nhập hai đô la mỗi ngày hoặc ít hơn chiếm 25% vào năm 2014. Mức độ bấp bênh đặc biệt cao ở thế giới đang phát triển, nơi mà nhóm “người lao động nghèo” (kiếm được bốn đô la hoặc ít hơn mỗi ngày) chiếm hơn một nửa tổng số công nhân. Gần 60% công nhân hưởng lương trên toàn cầu là lao động bán thời gian hoặc làm việc tạm thời ở một dạng nào đó; ngoài ra, hơn 22% là lao động tự làm (thường trong điều kiện khắc nghiệt).
Biểu đồ 2 thể hiện cùng dữ liệu ILO nhưng đối với các quốc gia phát triển. Ở đây, tỷ lệ công nhân hưởng lương cao hơn, và đội quân lao động dự bị nhỏ hơn. Tuy nhiên, ngay cả theo các ước tính thận trọng này, đội quân dự bị trong các quốc gia tư bản phát triển, chưa kể đến việc làm bán thời gian và bấp bênh, vẫn rất lớn, chiếm khoảng 26% lực lượng lao động sẵn có vào năm 2015. (Ở các nước đang phát triển, đội quân dự bị chiếm 65% lực lượng lao động sẵn có vào năm 2013.) Hơn nữa, vì sự bấp bênh thường gắn liền với việc làm bán thời gian và tạm thời, và vì sự chuyển dịch sang các hình thức việc làm này đang tăng nhanh ở các nước phát triển, nên mức tăng của nó lớn hơn nhiều so với những gì dữ liệu của ILO phản ánh.
Biểu đồ 2. Các tầng lớp của giai cấp công nhân ở các nước phát triển, 1991–2015

Nguồn: Như trong Biểu đồ 1.
Ghi chú: Hạng mục “các nước phát triển” tương ứng với hạng mục “thu nhập cao” trong cơ sở dữ liệu KILM ấn bản thứ 9. Số quốc gia thu nhập cao có dữ liệu về dân số không hoạt động là 65. Xem thêm ghi chú ở Biểu đồ 1.
Kết luận
Sự tập trung trở lại, đặc biệt là trong cánh tả, vào vấn đề bấp bênh thể hiện sự thừa nhận thực tế khắc nghiệt của chủ nghĩa tư bản, và đặc biệt là của chủ nghĩa tư bản tài chính-độc quyền toàn cầu hiện nay. Các khái niệm như “bấp bênh” (precarity) và thậm chí “tầng lớp bấp bênh” (precariat) có thể vẫn có vai trò nhất định, nếu chúng giúp mô tả đầy đủ hơn các điều kiện đặc trưng cho đội quân lao động dự bị và mối liên hệ ngày càng mong manh của đội quân lao động đang hoạt động với việc làm và điều kiện làm việc tử tế. Những khái niệm này có thể giúp chứng minh một thực tế mà Marx đã nhấn mạnh: rằng những lời hứa lặp lại của tư bản đối với người lao động đều là những lời hứa giả dối, và rằng giờ đây điều cấp thiết là giai cấp công nhân và toàn xã hội phải tiến lên theo hướng xã hội chủ nghĩa.
Hơn một thế kỷ phê phán kinh tế chính trị Marxist cho phép chúng ta hiểu được mức độ mà những điều kiện Marx mô tả, khi ông chỉ tập trung vào một góc nhỏ của châu Âu vào giữa thế kỷ XIX, nay đã mang tính toàn cầu, và còn nguy hiểm hơn nhiều. Trong thời đại hiện naym thời đại mà Samir Amin gọi là “giai cấp vô sản phổ quát” đối lập với “chủ nghĩa tư bản độc quyền phổ quát”, con đường cách mạng mới mà điều này đòi hỏi đang hiện rõ trước mắt chúng ta.
Thật vậy, trái ngược với Wacquant, người cho rằng “tầng lớp bấp bênh chỉ có thể tự tạo ra mình để rồi ngay lập tức tự xóa bỏ mình”, chúng ta cần một lần nữa nhấn mạnh ý nghĩa của đội quân lao động dự bị trong cách hiểu của Marx về giai cấp công nhân. Ở đây, nhiệm vụ lịch sử vẫn như trước kia, rèn giũa sự thống nhất của giai cấp công nhân, không phải để “phổ quát hóa” giai cấp vô sản, mà để vượt qua nó.
Nguồn: https://monthlyreview.org/2016/04/01/marxs-theory-of-working-class-precariousness/
Admin của VNYM










