Chính sách nâng tuổi nghỉ hưu nhìn từ quan điểm kinh tế – chính trị

Khi tuổi thọ bình quân đầu người ở tất cả các nước phát triển lớn tiếp tục tăng, các chính phủ đang cố gắng giảm bớt áp lực cung cấp an sinh xã hội cho dân số già bằng cách đưa chính sách tăng tuổi nghỉ hưu quốc gia vào chương trình nghị sự. Ở nhiều quốc gia, đề xuất này đã phải đối mặt phản ứng dữ dội, khẩu chiến gay gắt giữa diễn ngôn chính thức và dân sự. 

Xét thấy việc thực hiện chính sách này sẽ có tác động đáng kể đến mọi mặt của xã hội, do vậy vẫn còn nhiều vấn đề cần được khám phá trong các cuộc thảo luận học thuật nghiêm túc. Cần lưu ý rằng hầu hết các nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách chủ yếu dựa vào tư duy phiến diện, thiên về lợi ích của kinh tế tự do và cách tiếp cận tuyến tính hóa, thực nghiệm, trong khi các phân tích từ góc độ kinh tế chính trị vẫn chưa phổ biến. May mắn thay, thảo luận kinh tế trên cơ sở quan hệ sản xuất và thời gian lao động luôn là cốt lõi của nền kinh tế chính trị Marxist. Trước sự thay đổi chính sách quan trọng như vậy, liên quan đến thời gian làm việc kéo dài, sự thoải mái trong cuộc sống sau này và quyền tự do cho mọi người, việc thiếu vắng diễn ngôn chính trị – kinh tế là một điều đáng tiếc lớn. Trên cơ sở đó, tôi sử dụng góc độ kinh tế chính trị để làm sáng tỏ một số hiểu lầm và đưa ra một số ý tưởng chính sách mới.

Phân tích ảnh hưởng của việc nghỉ hưu bị trì hoãn

Từ góc độ kinh tế chính trị, lương hưu xã hội về cơ bản là một bộ phận trong tổng tiền lương lao động. Trong hệ thống lao động làm thuê, tư bản, thông qua việc trả lương, có được quyền sử dụng sức lao động của người công nhân trong một khoảng thời gian nhất định, và do đó cũng có thể chi phối thời gian lao động còn lại của người công nhân và thu được giá trị thặng dư. Để duy trì một hệ thống thống trị lao động ổn định như vậy, thì lương hưu – cũng như tiền lương lao động – phải phản ánh chi phí sản xuất và tái sản xuất lao động trong toàn bộ cuộc đời của một người. Bằng cách này, chúng ta có thể chia tiền lương lao động thành hai phần tùy theo tình trạng làm việc của con người: một mặt là tiền lương tại chức và lương hưu, một mặt là phần đóng góp một khoản phí bảo hiểm hưu trí nhất định của doanh nghiệp và cá nhân kể từ khi người đó tham gia vào lực lượng lao động. Khoản này cũng tương đương với một loại tài khoản tiết kiệm dành cho người lao động khi nghỉ hưu. Sau khi làm rõ bản chất định tính của quy định này, chỉ còn sự phân bổ về mặt định lượng của tiền lương lao động giữa hai phần theo tỷ lệ của mối quan hệ. Trong nền kinh tế thị trường, cái gọi là bảo hiểm hưu trí trên thực tế không gì khác hơn là sự phân chia tổng tiền lương lao động, về cơ bản nó thể hiện một mối quan hệ phân phối toán học. Theo khuôn khổ phân tích này, nhà nước lý tưởng sẽ thực hiện tốt công việc lập kế hoạch dài hạn và phân bổ vốn để hệ thống bảo hiểm hưu trí có thể duy trì sự cân bằng năng động về mặt tài chính.

Trì hoãn việc nghỉ hưu cũng có nghĩa là kéo dài thời gian lao động của người lao động, về bản chất, làm giảm tiền lương trên một đơn vị thời gian lao động của người lao động đang làm việc trong khi che giấu sự cắt giảm này. Đối với các nhà tư bản, tiền công lao động thuộc loại chi phí, chi phí kinh doanh; trong khi đó, bản chất của tư bản là tìm kiếm lợi nhuận, nhằm mục đích liên tục đạt được lợi nhuận cao hơn và chiếm đoạt giá trị thặng dư của người lao động. Vì vậy, để tối đa hóa lợi nhuận và thỏa mãn lòng tham vô hạn với lao động thặng dư, các nhà tư bản sẽ tìm mọi cách để giảm lương lao động. Vì có sự phản đối lớn đối với việc trực tiếp giảm lương, nên họ có thể giảm lương một cách gián tiếp bằng cách kéo dài giờ lao động và do đó đạt được giá trị thặng dư tuyệt đối. Đặc biệt, khi tư bản tiếp tục tích lũy thì tỷ suất lợi nhuận chung có xu hướng giảm, và để duy trì mức sinh lời nhất định trong sự cạnh tranh của thị trường, tư bản có xu hướng kéo dài thời gian làm việc của lực lượng lao động. Trong tình huống mà sức mạnh của tư bản không bị hạn chế, về mặt lý thuyết có thể kéo dài ngày làm việc đến bất kỳ độ dài nào trong vòng 24 giờ.

Trì hoãn tuổi nghỉ hưu của những người lao động đang làm việc trên diện rộng thực sự là một nỗ lực nhằm mở rộng nguồn cung thời gian lao động và giảm chi tiêu lương hưu xã hội (về cơ bản là tiền lương lao động) trong bối cảnh chi phí lao động tăng lên. Điều quan trọng cần chỉ ra là trong khi nhiều học giả có xu hướng trích dẫn sự gia tăng tuổi thọ bình quân đầu người để cho thấy rằng tuổi thọ của toàn bộ dân số đã tăng lên, và số năm dự kiến ​​mà người lao động nhận được lương hưu cũng vì thế mà tăng lên. Việc số giờ lao động của dân số trong độ tuổi lao động tăng lên cùng với tuổi thọ là một sai lầm thông thường vì nó hiểu sai về tuổi thọ bình quân đầu người. Tuổi thọ bình quân đầu người không đề cập đến tuổi thọ thực tế của tất cả mọi người mà chỉ đề cập đến tuổi thọ của nhóm sinh – nghĩa là số năm mà một người sinh ra trong một năm cụ thể dự kiến ​​sẽ sống. Sự gia tăng chỉ số này chủ yếu phản ánh sự tiến bộ về trình độ phát triển xã hội. Hơn nữa, tuổi thọ không bằng tuổi thọ khỏe mạnh, mà đối với nhiều người, tuổi thọ này thấp hơn nhiều so với tuổi thọ thực tế của họ.

Việc trì hoãn tuổi nghỉ hưu trên thực tế sẽ làm sâu sắc thêm xung đột giữa tư bản và lao động. Do kinh tế học tân cổ điển chỉ tập trung vào lợi ích kinh tế một chiều và không nhìn thấy được hệ thống sản xuất và phân phối xã hội tổng thể nên nó đã tạo ra nhiều lý thuyết thô tục và những mâu thuẫn sai lầm. Trong các lý thuyết về tiền lương và việc làm của kinh tế học chính thống, chỉ có giai cấp tư sản được coi là tạo ra của cải và nuôi sống người lao động. Điều này cho thấy sự thiếu hiểu biết rằng lao động của người lao động mới là nguồn giá trị thực sự. Người ta tin rằng thu nhập từ tiền lương chỉ có thể kiếm được thông qua lao động mà không hiểu các quy định thiết yếu về tiền lương lao động và lương hưu xã hội. Theo lối tư duy kinh tế này, khi gặp khó khăn trong việc chi trả lương hưu xã hội, các nhà kinh tế tìm cách giảm chi tiêu và giải quyết các vấn đề trước mắt nhưng họ không dám yêu cầu tư bản nhượng lại một phần lợi nhuận để bổ sung vào khoản đóng góp vào lương hưu khi mức lương lao động hiện đã rất thấp. Hơn nữa, khi phải đối mặt với chi phí lao động tăng cao và tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm chạp, họ cho rằng nguyên nhân là do người lao động nghỉ hưu quá sớm và yêu cầu trì hoãn việc nghỉ hưu để tăng số giờ lao động suốt đời của người lao động.

Câu hỏi cần đặt ra là: Khi tình hình kinh tế vĩ mô tốt, tại sao lại ngại tăng lương lao động và cho phép người lao động nghỉ hưu sớm? Nếu họ không sẵn sàng chuyển lợi nhuận để tăng lương hưu xã hội khi điều kiện kinh tế tốt thì tại sao họ lại yêu cầu giảm các khoản chi đó khi điều kiện kinh tế tồi tệ? Các lập luận lý thuyết bảo vệ chính sách hoãn nghỉ hưu là không thể đứng vững và không thuyết phục.

Nâng tuổi nghỉ hưu và quan điểm phê bình kinh tế – chính trị

Việc rút ngắn ngày lao động trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển tư bản chủ nghĩa là phù hợp với xu thế phát triển chung của xã hội. Về mặt lịch sử, việc thiếu trật tự và chuẩn mực đi kèm với sự trỗi dậy ban đầu của ngành công nghiệp quy mô lớn theo phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã dẫn đến sự áp bức không giới hạn đối với giai cấp công nhân, cả về cường độ lao động và thời gian lao động, sự áp bức đến mức đáng báo động. Chính trong bối cảnh của sự đàn áp và “phân chia xã hội” này mà sự đối chọi của các phong trào xã hội nhằm bảo vệ lực lượng lao động đã đạt được tiến bộ, và cốt lõi của sự bảo vệ này là cải thiện điều kiện lao động và đấu tranh cho ngày làm việc ngắn hơn. Ngày làm việc tám giờ cuối cùng đã trở thành hiện thực thông qua cuộc đấu tranh đoàn kết của giai cấp công nhân ở các nước phát triển. Ý tưởng giới hạn và điều chỉnh ngày làm việc và thời gian nghỉ ngơi như một khái niệm phổ quát dần dần được các nước trên thế giới chấp nhận và được luật pháp quốc gia bảo đảm.

Việc rút ngắn ngày làm việc một cách phổ biến không những không làm giảm lợi nhuận của giai cấp tư sản. Ngược lại, nỗ lực của nhiều công ty nhằm giảm chi phí lao động do cạnh tranh thị trường và tăng cường đổi mới đã kích thích sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ để thay thế lao động con người, dẫn đến năng suất lao động xã hội tăng lên rất nhiều. Kinh nghiệm lịch sử và tình hình hiện nay ở các nước tư bản tiên tiến đã chứng minh rõ ràng rằng việc liên tục rút ngắn ngày làm việc là phù hợp với quy luật phát triển xã hội và lịch sử. Chính sách nghỉ hưu muộn là một sự nhượng bộ trước tư bản, chẳng khác nào vứt bỏ thành quả lịch sử của giai cấp công nhân trong việc rút ngắn ngày làm việc, chắc chắn sẽ tạo cảm hứng cho một đợt đấu tranh mới của công nhân để có ngày làm việc ngắn hơn. Điều đáng chú ý là tin tức về các cuộc đình công và nổi dậy của công nhân ở phương Tây thường xuyên được đăng tải trên báo chí. Điều này được quyết định bởi mối quan hệ mâu thuẫn tất yếu giữa lao động và tư bản, và tình trạng hòa hoãn chỉ mang tính tạm thời.

Rút ngắn thời gian lao động là yêu cầu tất yếu để thực hiện sự phát triển toàn diện con người. Lao động và sự phân công lao động là những manh mối quan trọng để hiểu vấn đề phát triển con người. Trong Grundrisse (1857–58), Karl Marx, trên cơ sở quan niệm duy vật về lịch sử này, đã đưa ra lý thuyết ba giai đoạn về sự phát triển của con người: (1) giai đoạn của “sự phụ thuộc cá nhân” và phụ thuộc toàn diện vào vật chất; (2) giai đoạn “sự độc lập cá nhân dựa trên sự trao đổi chất chung, của các mối quan hệ phổ quát”; và (3) giai đoạn “cá nhân tự do dựa trên sự phát triển phổ biến của các cá nhân và sự phụ thuộc của họ vào năng suất xã hội, cộng đồng của họ với tư cách là…của cải xã hội [trực tiếp].” [1] Trong điều kiện sản xuất tư bản chủ nghĩa và mặc dù lực lượng sản xuất của xã hội có sự tiến bộ vượt bậc nhưng con người vẫn chưa thoát khỏi sự phụ thuộc vào quan hệ sản xuất hàng hóa; tức là họ vẫn đang trong giai đoạn lệ thuộc vật chất. Mọi người buộc phải bán sức lao động của mình và phục tùng sự phân công xã hội của hệ thống lao động để thực hiện việc sản xuất và trao đổi sản phẩm xã hội. Cũng trong trật tự quy định phân công lao động này, con người bị ràng buộc vào những vị trí nghề nghiệp cụ thể, điều này không chỉ dẫn đến sự phát triển một chiều của bản thân mà còn hạn chế không gian phát triển bản thân do phần lớn thời gian cuộc đời bị tiêu phí. Xu hướng phát triển xã hội loài người là chuyển từ giai đoạn “phụ thuộc vật chất” sang giai đoạn “phát triển tự do và toàn diện”. Lao động bị tha hóa về lâu dài là hoàn toàn trái ngược với xu thế phát triển này. Để con người có thể tự giải phóng và phát triển tự do, toàn diện, cần phải vượt qua trật tự tư bản tàn nhẫn và nỗ lực thực hiện giải phóng lao động.

Để đạt được mục tiêu này, cần phải liên tục thúc đẩy sự hội nhập của sự phân công lao động xã hội và cố gắng giải phóng quần chúng công nhân khỏi sự nô lệ của sự phân công lao động xã hội dựa trên vị trí lao động cứng nhắc. Đồng thời, cũng cần có khả năng giảm thời gian lao động bắt buộc cùng với sự gia tăng của cải vật chất trong xã hội để con người có nhiều thời gian nhàn rỗi hơn và tạo điều kiện tiên quyết cho quyền tự do phát triển toàn diện. Dấu hiệu rõ ràng nhất về sự tiến triển của quá trình này là việc liên tục rút ngắn thời gian lao động của tất cả mọi người. Những nhu cầu nội tại đó đã được đưa ra nhiều lần cùng với sự tiến bộ của lực lượng sản xuất. Với sự phát triển ngày càng cao của khoa học công nghệ, máy móc, thiết bị tiên tiến ngày càng được đưa vào sử dụng nhiều hơn. Điều này không chỉ tạo ra sản phẩm vật chất phong phú hơn mà còn tiết kiệm được rất nhiều sức lao động. Tuy nhiên, tiến bộ kinh tế ngày nay nhìn chung không làm giảm thời gian lao động của con người mà lại làm tăng thời gian lao động, điều này rõ ràng là không phù hợp với sự phát triển hợp lý.

Những vấn đề không có vấn đề: Nghịch lý của tuổi già

Suy nghĩ sâu sắc về thực tế xã hội, chắc chắn chúng ta sẽ đặt ra một câu hỏi: Nếu sự phát triển không ngừng của năng suất xã hội khổng lồ đã tạo ra sự giàu có chưa từng có thì tại sao chúng ta không thể giải quyết được vấn đề chăm sóc người già cho tất cả mọi người? Đây dường như là một nghịch lý của tuổi già. Vấn đề dường như thuộc về phạm trù tái sản xuất xã hội và nhân khẩu học, và việc thiếu khả năng nghỉ hưu có thể được coi là một vấn đề nhân khẩu học. Ngay từ thế kỷ XVII, ý nghĩa hiện đại của nghèo đói xã hội và sự tồn tại của một số lượng lớn người cơ cực đã buộc các chính phủ phải thực hiện nhiều biện pháp khác nhau để giúp đỡ người nghèo. Chính vì bối cảnh lịch sử và xã hội này mà lý thuyết nhân khẩu học của nhà kinh tế học Thomas Robert Malthus đã trở nên phổ biến trong tầng lớp thượng lưu. Theo quan điểm của Malthus, vì số lượng người và nhu cầu tiêu dùng của họ tăng theo cấp số nhân trong khi phương tiện sinh hoạt tăng theo cấp số cộng, những cái gọi là quy luật tự nhiên này xác định rằng chắc chắn sẽ có một bộ phận dân số không thể được hỗ trợ và do đó là “ dân số dư thừa.” Do đó, tốc độ tăng dân số phải được hạn chế bằng cách hạn chế tỷ lệ sinh của người nghèo. Marx phê phán gay gắt quy luật dân số phản động của Malthus, được phát triển tách biệt khỏi các quan hệ xã hội. Để đáp lại cách tiếp cận nhân khẩu học của Malthus, Marx đã đề xuất các khái niệm về đội quân lao động dự bị và giai cấp vô sản. Theo quan điểm của ông, việc tạo ra tình trạng nghèo đói hiện đại – hay sự tồn tại của dân số dư thừa tương đối – hoàn toàn là do phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa hiện có và quy luật tích lũy tư bản, và chỉ có sự phê phán kinh tế chính trị đối với các xã hội hiện đại thì quy luật thực sự về dân số mới có thể được bộc lộ. Lập luận hiện tại cho rằng có quá nhiều người già và lương hưu xã hội đang quá tải, cũng như ý tưởng về việc trì hoãn việc nghỉ hưu (nhằm tìm cách giữ cho nhóm người già “được cho là quá đông” vẫn làm việc), không gì khác hơn là chủ nghĩa thần kinh nhân khẩu học của Malthus với tấm áo ngụy trang, phản ánh sự thụt lùi về mặt lý thuyết.

Các nhà kinh tế học thô tục tập trung vào những gì họ coi là việc người lao động nghỉ hưu sớm sẽ dẫn đến, do tỷ lệ thất nghiệp thấp hơn nên lực lượng lao động không thể được thúc đẩy bởi tư bản. Tuy nhiên, họ đang phớt lờ tình trạng dư thừa hàng hóa và dư thừa năng lực ở khắp mọi nơi, đồng thời với sự lãng phí lao động nghiêm trọng. Với sự ra đời của thời đại công nghiệp lớn của máy móc, đã có sự bùng nổ về năng lực sản xuất của xã hội loài người. Năng lực sản xuất vật chất để đáp ứng nhu cầu cơ bản của con người tăng nhanh hơn nhiều so với tốc độ tăng dân số trong thời đại này. Ngày nay, năng lực sản xuất của xã hội lại tăng lên một cách phi thường. So sánh năng suất xã hội tuyệt đối với dân số, các nước công nghiệp phát triển hoàn toàn có khả năng giải quyết vấn đề an sinh xã hội cho đại đa số người dân – vậy tại sao họ không thể giải quyết được vấn đề nghỉ hưu cho người dân trong những năm tuổi xế chiều?

Trong sự vận động đối kháng của tư bản và lao động, sức mạnh của tư bản một mặt được phát huy, tạo cơ sở vật chất cho các giai đoạn xã hội tiến bộ hơn; mặt khác, nó còn dẫn đến sự tha hóa lao động và sự phân cực các giai cấp trong xã hội. Giai cấp công nhân đã tạo ra của cải xã hội khổng lồ, nhưng ngay cả quyền trao đổi lao động lấy phương tiện sinh hoạt cũng không được bảo vệ tốt. Do đó, việc tạo ra dân số dư thừa và dẫn đến vấn đề chăm sóc người già, bắt nguồn từ chính phương thức sản xuất xã hội hiện có. Mấu chốt của vấn đề không nằm ở chỗ chính phủ không đủ khả năng trả lương hưu hoặc không có khả năng chi trả cho việc tiêu dùng của cải vật chất cần thiết cho người già. Nó chỉ là một tuyên bố về một thực tế lịch sử tất yếu rằng mâu thuẫn tuyệt đối không nằm ở của cải xã hội cần thiết cho an sinh xã hội của người dân, mà nằm ở hệ thống sản xuất và phân phối xã hội đối kháng do logic tư bản thống trị.

Nhìn vào tổng thể năng lực sản xuất và cung ứng của xã hội, “người già” không phải là vấn đề. Vì vậy, khi nghĩ đến vấn đề hưu trí, chúng ta phải xuất phát từ những quan hệ sản xuất, phân phối cụ thể và thông qua thiết kế thể chế, từng bước thúc đẩy những thay đổi trong quan hệ sản xuất xã hội. Điều này đòi hỏi phải điều chỉnh cơ cấu phân bổ thu nhập quốc dân phù hợp với xã hội hóa sản xuất, cũng như phân bổ theo mô hình cộng đồng để người dân được hưởng thụ hiệu quả thành quả phát triển kinh tế.

Cải cách để giải quyết vấn đề lương hưu

Vấn đề phát sinh từ việc trì hoãn việc nghỉ hưu không chỉ đơn giản là khoảng cách lớn về lương hưu mà nó còn liên quan đến sự hiểu biết của chúng ta về tính tất yếu của sự phát triển kinh tế và xã hội. Nếu chỉ giới hạn sự chú ý vào điều kiện kinh tế hiện tại thì giải pháp cho vấn đề lương hưu là phải làm tốt công việc phù hợp với “luật sắt về tiền lương” theo sự phân chia và điều chỉnh tiền lương lao động hiện hành. Bản thân tiền lương gắn liền với tình hình kinh tế và trải qua những thay đổi mang tính chu kỳ do sự cạnh tranh vô tổ chức của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Trong thời kỳ kinh tế thịnh vượng, cả tiền lương và lương hưu đều tăng; trong thời kỳ suy thoái, cả hai đều thu hẹp lại. Về lâu dài, lương hưu vẫn phụ thuộc vào mức lương trung bình. Rõ ràng, điều này không thực sự giải quyết được vấn đề già hóa dân số.

tất cả thành quả lao động của đất nước xét theo thặng dư kinh tế, từ quan điểm xã hội, có thể được chia thành hai phần: quỹ sản xuất, chủ yếu được sử dụng để bù đắp cho những hao hụt tài sản cố định, đầu tư bổ sung và bảo hiểm dự trữ; quỹ tiêu dùng xã hội chủ yếu dùng cho chi tiêu chung, bao gồm các khoản chi quản lý cần thiết, chi duy trì trường học, cơ sở y tế và chi hỗ trợ người mất khả năng lao động. Dựa trên quan điểm này, chi phí dưỡng già cho người về hưu trên thực tế là một phần được khấu trừ từ tổng quỹ tiêu dùng của xã hội và nó sẽ tăng lên cùng với sự cải thiện không ngừng của nền văn minh xã hội. Trước thực tế của vấn đề lương hưu, chúng ta có thể bắt đầu với những ý tưởng cải cách sau đây.

Trước hết, chúng ta phải thống nhất hai biện pháp điều tiết của Nhà nước và điều chỉnh thị trường để xây dựng hệ thống kinh tế xã hội chủ nghĩa. Cần phải từ bỏ ảo tưởng tư sản rằng các quan hệ sản xuất xã hội hiện tại sẽ không bị thay đổi nhằm cố gắng duy trì mối quan hệ mâu thuẫn giữa tư bản và lao động mãi mãi, đồng thời loại bỏ những hiểu biết sai lầm về kinh tế như “bẫy thu nhập trung bình” và “sự biến mất của lợi tức nhân khẩu học.” Với sự hạn hẹp của phương thức sản xuất dựa trên đòi hỏi về lợi ích của tư bản, những người tìm cách giảm bớt vấn đề nhân khẩu học, không thể giữ nguyên các quan hệ sản xuất xã hội hiện có mà phải có những hành động tích cực, thậm chí sử dụng khủng hoảng kinh tế để tạo ra điều kiện phát triển một phương thức sản xuất mới. Một hệ thống kinh tế đáp ứng tốt hơn yêu cầu phân công lao động xã hội, quan hệ xã hội và nhu cầu phát triển cá nhân sẽ được thiết lập.

Thứ hai, cần cải thiện hệ thống ngân sách và tài chính quốc gia, tăng cường can thiệp và hướng dẫn kinh tế vĩ mô, đồng thời các chính sách tài khóa và thuế phải hài hòa với đầu tư và tiêu dùng. Duy trì một tỷ lệ nhất định doanh thu thuế cho phép phân phối lại thu nhập xã hội và thúc đẩy mở rộng tái sản xuất xã hội. Điều này cũng đòi hỏi chi tiêu tài chính phải được hợp lý hóa theo tỷ lệ đầu tư và tiêu dùng xã hội để tránh tình trạng sản xuất thừa. Ngoài ra, phải thiết lập các biện pháp kiểm soát theo hướng dòng vốn tài chính nhằm hướng dẫn phân bổ các nguồn lực xã hội, tiếp tục cách mạng hóa phương tiện sản xuất và cung cấp các điều kiện vật chất để giảm thời gian lao động. Mục tiêu là đảm bảo cho sự phát triển của các quan hệ sản xuất tiên tiến hơn đồng thời tạo ra mối quan hệ hài hòa hơn giữa lao động và tư bản.

Thứ ba, hạn chế tư bản trong các lĩnh vực liên quan đến kinh tế quốc dân và sinh kế của người dân, không ngừng tăng cường đầu tư vào các chương trình xã hội để mở rộng cung ứng dịch vụ công. Các khoản chi cho giáo dục, văn hóa, y tế, chăm sóc sức khỏe, giải trí công cộng và chăm sóc cộng đồng cho người cao tuổi, tất cả đều liên quan đến phúc lợi của người dân, có thể được đưa vào phạm vi chi tiêu của quỹ tiêu dùng cộng đồng. Trong những lĩnh vực này, nếu tư bản được phép thống trị thì lợi nhuận tư nhân chắc chắn sẽ làm tăng chi phí của các dịch vụ xã hội tương ứng. Cũng giống như trong lĩnh vực y tế, có hàng loạt các bên quan tâm đến các công ty cấp bằng sáng chế, công ty dược phẩm, công ty vật tư y tế, nhà bán dược phẩm, bệnh viện, v.v. Vì vậy, sự hỗ trợ cần được cung cấp bởi tài chính công và chính phủ nên đi đầu trong việc tổ chức các hoạt động xã hội.

Thứ tư, cùng với sự phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội, an sinh xã hội/lao động cần được tăng cường và thời gian làm việc cần được rút ngắn dần. Chúng ta phải liên tục tăng cường luật pháp và thực thi pháp luật/an sinh xã hội/an toàn lao động, và trên cơ sở quy định nghiêm ngặt về ngày làm việc 8 giờ hiện có, tích cực khuyến khích và thúc đẩy ngày làm việc ngắn hơn với số giờ làm việc ít hơn. Giờ làm việc ngắn hơn không chỉ làm tăng việc làm và giảm bớt cái gọi là áp lực xã hội đối với việc làm mà còn làm tăng chi phí lao động, từ đó thúc đẩy tiến bộ và đẩy nhanh ứng dụng công nghệ thay thế lao động của con người và tạo ra của cải xã hội lớn hơn. Khi thời gian rảnh rỗi của con người tăng lên và cá tính tự do của họ được giải phóng khỏi sự ràng buộc lao động, trí tưởng tượng và khả năng sáng tạo có thể được phát triển đầy đủ hơn, tạo ra những đóng góp bất ngờ cho toàn xã hội.

[1] Ghi chú

↩ Karl Marx, Grundrisse (London: Penguin Classics, 1993), 158.


Tác giả: Cai Chao, Đánh giá hàng tháng

(Cai Chao hiện là giảng viên tại Trường Chủ nghĩa Marx, Đại học Khoa học và Công nghệ Hoa Trung ở Vũ Hán, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.)

Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận