Vạch trần vai trò của IMF: IMF và cuộc đấu tranh giai cấp ở Mỹ Latinh 

Lập luận của kinh tế học dòng chính là con đường để đạt đến thịnh vượng cho các nước đang phát triển là thông qua việc thực hiện một loạt chính sách “thị trường tự do”, trong đó, các biện pháp chính là ủng hộ sự mở cửa kinh tế, bãi bỏ quy định và tự do hóa thị trường, và tư nhân hóa các doanh nghiệp công. Bất chấp bằng chứng thực nghiệm cho thấy rằng không có quốc gia phát triển nào đạt được năng lực hiện tại thông qua việc áp dụng các chính sách này, các quốc gia cốt lõi trên thế giới vẫn tiếp tục duy trì quan điểm này và quan trọng hơn là, nỗ lực đảm bảo rằng các nước đang phát triển thực hiện chúng. Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đóng một vai trò không thể thiếu trong cơ cấu này. Với mục đích bảo vệ sự ổn định của nền kinh tế toàn cầu, IMF đóng vai trò then chốt trong việc tái cơ cấu và mở rộng sự thống trị của tư bản tài chính quốc tế đối với các nguồn lực sản xuất địa phương, như ở châu Mỹ Latinh, bằng cách ủng hộ việc hợp nhất, trói buộc các giai cấp tư bản địa phương vào các thiết chế quyền lực của tư bản toàn cầu.

Mục đích của bài viết này, một mặt, là để chứng minh rằng mối quan hệ giữa Mỹ Latinh và IMF là sự phản ánh trung thực của đấu tranh giai cấp trên quy mô toàn cầu, trong đó các động lực quyền lực bên trong và bên ngoài đã được thể hiện qua nhiều năm theo hướng có lợi cho tư bản. Mặt khác, mục tiêu là phản ánh những khả năng cụ thể sẽ mở ra cho khu vực trong tương lai nếu khu vực này quyết định không lặp lại lịch sử của mình. [1]

Với những mục tiêu này, khởi đầu chúng tôi sẽ xem xét ngắn gọn vai trò của IMF trong nền kinh tế toàn cầu, các quốc gia kiểm soát các quyết định của IMF cũng như các chức năng và nguồn tài chính chính của IMF. Sau đó chúng tôi sẽ xem xét mối quan hệ lâu dài giữa các nước Mỹ Latinh và IMF kể từ giữa những năm 1970 cho đến nay. Xét lại những yếu tố này mục tiêu là để giải thích những cách thức cụ thể mà theo đó sự can thiệp của IMF chắc chắn đã tỏ ra mang tính quyết định trong cuộc đấu tranh giai cấp trong khu vực, với cán cân luôn nghiêng về đại tư bản. Cuối cùng, trong phần cuối cùng, chúng ta sẽ suy ngẫm về bản chất của IMF và những khả năng phía trước đối với khu vực nếu nó chọn cách đảo ngược di sản lịch sử tai hại này.

Sự xuất hiện của IMF và các chức năng chính của nó

Nguồn gốc của IMF bắt đầu từ năm 1944, khi thế giới vẫn còn chìm đắm trong Thế chiến thứ hai. Trong bối cảnh này, 44 quốc gia đồng minh và liên kết, cùng với một quốc gia trung lập (Argentina), do Hoa Kỳ và Vương quốc Anh dẫn đầu, đã tập trung tại Bretton Woods, New Hampshire, để thảo luận về các kế hoạch kinh tế sẽ được thực hiện khi hòa bình được tái lập. [2] Các chính phủ đã đặt mục tiêu là đảm bảo hòa bình và thịnh vượng toàn cầu thông qua hợp tác kinh tế quốc tế, điều này sẽ được thể hiện thông qua một thị trường toàn cầu nơi vốn và hàng hóa có thể di chuyển tự do mà không gặp rào cản.

Hiệp định Bretton Woods không chỉ thiết lập các quy tắc chung cho quan hệ quốc tế, được thiết kế bởi hai cường quốc bá quyền cuối cùng trên thế giới (Anh và Hoa Kỳ), mà còn thể hiện một cách cơ bản mong muốn của các cường quốc này trong việc mở rộng thị trường tư bản chủ nghĩa trên toàn cầu và trói buộc các quốc gia nằm ở thị trường ngoại vi vào kế hoạch tích lũy toàn cầu của họ. Cũng cần nhấn mạnh rằng trong khi Bretton Woods là kết quả của việc lập kế hoạch và hợp tác giữa Hoa Kỳ và Vương quốc Anh, Hoa Kỳ đã thống trị hội nghị, chỉ đạo hội nghị theo lợi ích quốc gia và nổi lên như một cường quốc bá chủ thế giới không thể tranh cãi.

Không thể thiếu trong thỏa thuận này là ba tổ chức quản lý, được hình dung là sẽ hỗ trợ hoạt động toàn cầu mới. Các tổ chức này là IMF, Ngân hàng Tái thiết và Phát triển Quốc tế (sau này gọi là Ngân hàng Thế giới) và Tổ chức Thương mại Quốc tế (sau này trở thành Tổ chức Thương mại Thế giới). IMF là tổ chức quyền lực nhất trong ba tổ chức này, ban đầu tập trung vào các vấn đề tài chính liên quan đến tỷ giá hối đoái và cán cân thanh toán cho vay, những vấn đề quan trọng nhưng không gây tranh cãi nhiều. [3] Tuy nhiên, vào đầu những năm 1970, trong bối cảnh chủ nghĩa tư bản toàn cầu có những biến đổi đáng kể, bao gồm cả việc từ bỏ chế độ bản vị vàng, thể chế này đã thay đổi quan điểm chính trị của mình đối với cái gọi là các nước thuộc thế giới thứ ba. Nó bắt đầu cung cấp các khoản vay để đổi lấy việc thực hiện một loạt chính sách bao gồm mở cửa và tự do hóa nền kinh tế, tư nhân hóa và nhấn mạnh việc áp dụng “thắt lưng buộc bụng” hơn nữa trong quản lý tài chính của chính phủ các nước.

Sự thay đổi các điều kiện áp đặt đối với các nước mắc nợ không phải là ngẫu nhiên mà là một phản ứng vì lợi ích hiển nhiên của các nước miền Trung, đặc biệt là Hoa Kỳ, nhằm đánh gục mọi nỗ lực nhằm thực hiện một mô hình phát triển thay thế vốn có thể thách thức quyền bá chủ của Hoa Kỳ. Theo điều lệ của mình, IMF là một cơ quan siêu quốc gia với mục đích thúc đẩy hợp tác tiền tệ quốc tế, tạo điều kiện mở rộng và tăng trưởng cân bằng thương mại quốc tế, thúc đẩy ổn định tỷ giá hối đoái, hỗ trợ thiết lập một hệ thống thanh toán đa phương và cung cấp nguồn lực (với các biện pháp bảo vệ thích hợp) cho các quốc gia thành viên đang gặp phải tình trạng mất cân đối trong cán cân thanh toán. Các chức năng này, về mặt thực tiễn và tổ chức, được nhóm thành ba loại cơ bản: hỗ trợ tài chính (bao gồm việc cung cấp các khoản vay cho các quốc gia thành viên đang gặp vấn đề về cán cân thanh toán), giám sát (với mục tiêu duy trì sự ổn định và ngăn ngừa khủng hoảng trong hệ thống tiền tệ quốc tế), và xây dựng năng lực (IMF liên tục cung cấp hỗ trợ kỹ thuật và đào tạo để thúc đẩy và thiết lập một tập hợp các hoạt động được cho là nhằm cải thiện các thể chế hiện có và tăng cường năng lực kỹ thuật của các nhóm trong nước). [4]

Năm 1969, IMF tạo ra một tài sản dự trữ quốc tế mới được gọi là Quyền rút vốn đặc biệt (SDR) để bổ sung cho dự trữ chính thức của các nước thành viên. SDR là nguồn tài chính chính sẵn có cho tổ chức để hoạt động và giá trị của chúng, từ ngày 1 tháng 10 năm 2016 đến nay, dựa trên sự phát triển của rổ năm loại tiền tệ: đồng dollar Mỹ, đồng euro, đồng nhân dân tệ Trung Quốc, đồng yên Nhật và đồng bảng Anh. Tổng phân bổ SDR trên toàn thế giới hiện ở mức khoảng 204 tỷ SDR (khoảng 296 tỷ USD).

Các thành viên IMF đóng góp hạn ngạch khác nhau, phản ánh quy mô và vị trí tương đối của họ trong nền kinh tế thế giới cũng như quyền lực của họ trong tổ chức. Chín nền kinh tế hàng đầu thế giới – Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc, Đức, Pháp, Anh, Ý, Ấn Độ và Nga – đóng góp 53% SDR, mang lại cho họ 50,39% tổng số phiếu bầu và cho phép họ kiểm soát tổ chức tài chính quốc tế. Rõ ràng IMF không phải là một tổ chức dân chủ theo nghĩa bình đẳng giữa các quốc gia, vì khả năng cấp tín dụng và việc áp dụng (hoặc không) các điều kiện đối với các khoản vay này chỉ phụ thuộc vào thỏa thuận và mong muốn của các cường quốc kinh tế lớn trên thế giới.

Các khoản vay của IMF được cấu trúc xung quanh hai chương trình chính: Thỏa thuận dự phòng và Cơ sở quỹ mở rộng hoặc Thỏa thuận cơ sở cho tín dụng mở rộng. Loại thứ nhất được các nước thành viên sử dụng thường xuyên nhất và thường có thời hạn tương đối ngắn, kéo dài từ 12 đến 24 tháng nhưng hiếm khi vượt quá 36 tháng. Nói chung, các thỏa thuận này liên quan đến việc IMF giám sát liên tục các chính sách kinh tế của đất nước, nhưng có ít điều kiện liên quan đến cải cách cơ cấu, vốn tập trung vào việc đáp ứng các mục tiêu nhất định đã đặt ra. Loại thỏa thuận thứ hai, Cơ sở cho tín dụng mở rộng, được áp dụng cho các quốc gia không chỉ gặp vấn đề về cán cân thanh toán tạm thời mà còn được coi là có sự mất cân đối về cơ cấu. Với loại thỏa thuận này, IMF đề xuất can thiệp vào cơ cấu kinh tế của đất nước, áp dụng thắt lưng buộc bụng tài chính, tự do hóa tỷ giá và điều hướng về lãi suất; nó cũng thường bao gồm một loạt các biện pháp liên quan đến tư nhân hóa, cải cách lao động và những thay đổi về an sinh xã hội. Những kế hoạch này không được thiết kế thực sự để giúp các nước mắc nợ giải quyết các vấn đề kinh tế và tài chính của họ; ngược lại, IMF rõ ràng đang có ý định can thiệp vào hoạt động chính trị nội bộ của họ, áp đặt các chính sách thị trường tân tự do dưới chiêu bài hỗ trợ “vô điều kiện”, qua đó đảm bảo họ tuân thủ các yêu cầu của thị trường tư bản quốc tế.

Mối quan hệ giữa IMF và Mỹ Latinh

Để hiểu mối quan hệ giữa IMF và Mỹ Latinh, trước tiên chúng ta phải hiểu vai trò mà Hoa Kỳ đã giao cho khu vực này trong lịch sử. Đối với quốc gia hùng mạnh nhất thế giới, Mỹ Latinh chủ yếu đóng vai trò là nhà cung cấp nguyên liệu thô và tài nguyên thiên nhiên giá rẻ. Điều này rất khác biệt so với vai trò mà Châu Âu đã có (và tiếp tục có) đối với Hoa Kỳ, như Eric Toussaint đã phân tích sâu sắc. [5] Trong khuôn khổ công cuộc tái thiết Châu Âu sau Thế chiến thứ hai, Hoa Kỳ phải đối mặt với tình thế tiến thoái lưỡng nan về cách cho các nước đồng minh Châu Âu của mình vay tiền. Theo Toussaint, một nhà sử học người Bỉ, mục tiêu trọng tâm của Hoa Kỳ trong thời kỳ hậu chiến là duy trì toàn dụng lao động, đạt được thông qua nỗ lực chiến tranh khổng lồ và đảm bảo thặng dư thương mại trong quan hệ của Hoa Kỳ với phần còn lại của thế giới. Tuy nhiên, các nước công nghiệp phát triển lớn có nhu cầu nhập khẩu hàng hóa từ Hoa Kỳ lại thực sự không có một xu dính túi. Để họ có thể mua được các sản phẩm do Mỹ sản xuất, họ phải có một lượng lớn dollar. Có ba cách để thực hiện việc này: 

(a) cho vay tiền và yêu cầu người nhận trả bằng hiện vật; 

(b) cho vay tiền và yêu cầu họ trả nợ bằng dollar; và 

(c) quyên góp tiền cho đến khi họ tự đứng vững trở lại. 

Với khả năng đầu tiên, các sản phẩm của châu Âu sẽ cạnh tranh ở Hoa Kỳ và việc tạo ra việc làm đầy đủ sẽ không thể xảy ra. Với khả năng thứ hai (hoàn trả bằng dollar), để họ trả hết nợ, họ sẽ phải vay gấp đôi số tiền đó cộng với lãi suất. Rủi ro bước vào một chu kỳ nợ nần không thể kiểm soát được (có thể cản trở hoặc một lần nữa làm chậm hoạt động kinh doanh) kết hợp với rủi ro nảy sinh ở khả năng thứ nhất. Do đó, phương án được chọn là quyên góp dollar cho cái được gọi là Kế hoạch Marshall, trong đó người châu Âu sẽ sử dụng chúng để mua hàng hóa và dịch vụ, đảm bảo một lối thoát cho hàng xuất khẩu của Hoa Kỳ và từ đó tạo ra việc làm đầy đủ. [6] Kế hoạch Marshall cũng là một phần trong chiến lược Chiến tranh Lạnh nhằm tái thiết Tây Âu để chống lại khối Xô Viết.

Trái lại, tình hình ở Mỹ Latinh lại hoàn toàn khác. Điều này có thể được nhận thấy cả trong sự phát triển của mối quan hệ tổng thể cũng như tình hình của mỗi quốc gia trong khu vực. Trong những năm sau chiến tranh (1945–70), khu vực Mỹ Latinh đã tìm cách kích thích phát triển kinh tế dựa trên chiến lược công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu, tuân theo sự lãnh đạo của các chính sách có phần không chính thống do Ủy ban Kinh tế Châu Mỹ Latinh và Caribe đưa ra. Khu vực này cần dollar để duy trì khối lượng nhập khẩu cần thiết nhằm duy trì tăng trưởng công nghiệp và trong suốt thời kỳ này, khu vực tài chính hoàn toàn phụ thuộc vào khu vực sản xuất, được cấu trúc như một thể chế để kích thích phát triển công nghiệp.

Vào cuối những năm 1960 và đầu những năm 70, khu vực này đã trải qua sự lên nắm quyền của một số chế độ độc tài quân sự và áp đặt một mô hình kinh tế mới nhằm đảm bảo quyền bá chủ của tư bản tài chính (quốc tế). Mục tiêu chính của những cuộc đảo chính quân sự này là làm giảm đáng kể vai trò vượt trội của giai cấp công nhân trong quá trình tích lũy, ngăn chặn tăng lương thực tế và giảm chi tiêu xã hội. Họ cũng thay đổi logic nợ của các nước trong khu vực. Khoản vay mà các nước Mỹ Latinh sử dụng để vượt qua những hạn chế từ bên ngoài và thúc đẩy công nghiệp hóa đã trở thành yếu tố then chốt trong việc trỗi dậy và củng cố quyền bá chủ vì lợi ích của tư bản tài chính quốc tế. [7]

Sau khi Hoa Kỳ từ bỏ chế độ bản vị vàng vào năm 1971 và thời gian điều chỉnh tương đối ngắn cùng với lạm phát gia tăng, cuộc khủng hoảng niềm tin vào thị trường quốc tế của đồng dollar đã tạo ra một thời kỳ bất ổn, trong đó Paul Volcker được bổ nhiệm làm Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ (ngân hàng trung ương Hoa Kỳ) vào tháng 8 năm 1979. Để kiềm chế lạm phát, ông đã thực hiện một loạt chính sách thắt chặt tiền tệ mạnh mẽ và tăng lãi suất, gây ra suy thoái kinh tế ở Hoa Kỳ và hầu hết các nước tiên tiến. Việc tiếp cận tín dụng trở nên đắt đỏ hơn đáng kể, tạo điều kiện cho một “cuộc khủng hoảng nợ” ở Mexico và buộc Bộ trưởng Bộ Tài chính Mexico, Jesús Silva Herzog, phải thông báo nước này không trả được nợ nước ngoài. Quyết định của Mexico nhanh chóng được Argentina, Brazil và Venezuela làm theo và sau đó được mở rộng sang các nước khác trong khu vực. Kết quả là các ngân hàng tư nhân cắt mọi nguồn tài trợ cho khu vực.

Trong vòng một năm, rủi ro tài chính của chín ngân hàng lớn nhất Hoa Kỳ đã lên tới 180% giá trị ròng của họ. Sự sụt giảm giá trị thị trường của nợ Mỹ Latinh không chỉ đe dọa các ngân hàng này mà còn có khả năng dẫn đến một cuộc khủng hoảng ngân hàng toàn cầu. [8] Khu vực này phải đối mặt với một câu lạc bộ chủ nợ thực sự, được chính phủ Mỹ điều phối để ngăn chặn một cuộc khủng hoảng ngân hàng lớn trong nước. [9] Đây là cuộc khủng hoảng đầu tiên thuộc loại này ở các nước “đang phát triển” và gây ra sự hoảng loạn trên thị trường tài chính quốc tế. IMF đã cấp cho Mexico một khoản vay trị giá 1 tỷ USD, xoa dịu thị trường quốc tế và mang lại thời gian bình yên ngắn ngủi cho nền kinh tế Mexico. [10] IMF đặt điều kiện cho “sự trợ giúp” này là việc áp đặt các chính sách thắt lưng buộc bụng và các chính sách kinh tế khác, mở đầu cho cái được gọi là “thập kỷ mất mát” (về mặt tăng trưởng kinh tế) đối với các nước lớn hơn ở Mỹ Latinh. Ở Mexico, điều này không chỉ liên quan đến việc cắt giảm đáng kể chi tiêu công, dẫn đến cắt giảm đáng kể các dịch vụ công và dự án đầu tư, mà còn buộc nước này phải gia nhập Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại. Đây sẽ trở thành khúc dạo đầu cho việc đàm phán Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ, một công cụ trung tâm giúp thực hiện toàn diện các chính sách nhằm áp đặt chủ nghĩa tân tự do ở nước này, một gói biện pháp toàn diện được biết đến rộng rãi với tên gọi Đồng thuận Washington. [11]

Sau khi chương trình này đi vào thực tế đã có một nỗ lực nhằm tạo ra một mặt trận độc lập nhằm đối trọng với các áp lực từ phía bắc, Hiệp hội Cartagena ra đời vào tháng 6 năm 1984, tập hợp các đại diện từ 11 quốc gia Mỹ Latinh: Argentina, Bolivia, Brazil, Chile, Colombia, Cộng hòa Dominica, Ecuador, Mexico, Peru, Uruguay và Venezuela. [12] Các quốc gia này chiếm 80% số nợ của khu vực, tuy nhiên, bất chấp những nỗ lực hành động và hợp tác chung, tuyên bố cuối cùng của họ chỉ tạo ra một cơ chế tham vấn và giám sát khu vực nhằm hỗ trợ đàm phán với các chủ nợ. Phản ứng nhanh chóng của Cục Dự trữ Hoa Kỳ, phối hợp với các ngân hàng Hoa Kỳ và IMF, đã vô hiệu hóa được mối đe dọa này từ các nước Mỹ Latinh.

Cuộc khủng hoảng nợ trong khu vực kéo dài 8 năm cho đến đầu những năm 1990, bất chấp nhiều nỗ lực giải quyết không thành công. [13] Nỗ lực cuối cùng nhằm giải quyết vấn đề nợ nần là Kế hoạch Brady do Bộ trưởng Tài chính Mỹ Nicholas Brady đề ra. Kế hoạch đề xuất đổi trái phiếu nợ nước ngoài cũ lấy trái phiếu mới được Kho bạc Hoa Kỳ hỗ trợ. Mexico là quốc gia đầu tiên áp dụng kế hoạch này vào năm 1989 và trong những năm tiếp theo, 10 quốc gia trong khu vực đã ký kết: Argentina, Brazil, Costa Rica, Ecuador, Mexico, Panama, Peru, Cộng hòa Dominica, Uruguay và Venezuela. Mức giảm nợ dao động trong khoảng từ 35% đến 45%, làm giảm tỷ lệ nợ trên GDP từ 54% năm 1987 xuống còn 32% năm 1997. [14] Hậu quả của cuộc khủng hoảng là nghiêm trọng về mặt kinh tế và xã hội đối với hầu hết các nước trong khu vực, như mức nợ tăng lên và mức độ tự chủ trong các quyết định về chủ quyền đã vĩnh viễn mất đi. [15]

Vào giữa những năm 1990, khu vực này phải hứng chịu một cuộc khủng hoảng nợ mới, lại bắt nguồn từ Mexico. “Cuộc khủng hoảng Tequila” – một cuộc khủng hoảng liên quan đến đồng peso của Mexico – dẫn đến “cuộc tháo chạy khỏi ngân hàng”, đe dọa sự ổn định của các ngân hàng tư nhân. Lần này là kết quả hoàn toàn có thể dự đoán trước của một chương trình không bền vững nhằm duy trì tỷ giá hối đoái cố định giả tạo dưới thời chính quyền của Tổng thống Carlos Salinas de Gortari, nhằm đánh bóng danh tiếng quốc tế của ông. Với sự thay đổi chính quyền vào năm 1995, cộng đồng tài chính đã buộc phải thực hiện một đợt phá giá lớn, dẫn đến lạm phát gia tăng mạnh mẽ và lãi suất tăng cao khiến hàng triệu người rơi vào tình trạng phá sản, dẫn tới sự phá hủy các doanh nghiệp nhỏ và khiến một bộ phận đáng kể dân chúng mất nhà khi chúng bị ngân hàng tịch thu do vỡ nợ thế chấp. IMF đã can thiệp bằng một khoản vay trị giá 50 tỷ USD, hỗ trợ quyết định của Mexico trong việc “xã hội hóa” các khoản nợ không thể thanh toán của hệ thống ngân hàng tư nhân thông qua “Quỹ ngân hàng bảo vệ tiết kiệm” (FOBAPROA, thường được gọi phổ biến là “Rob-aproa”) với hơn 500 tỷ peso. Rõ ràng mục đích của nó là cứu các ngân hàng tư nhân (chủ yếu là nước ngoài), cung cấp cho họ tính thanh khoản và giải quyết các khoản nợ không thể trả được của họ trước gánh nặng công cộng mà người dân Mexico sẽ phải gánh chịu qua nhiều thế hệ, hạn chế khả năng tài trợ cho các công trình công cộng, dịch vụ công thiết yếu mà đất nước cần. [16]

Giai đoạn này đánh dấu ảnh hưởng đỉnh cao của chủ nghĩa tân tự do trong khu vực và các chính sách được thực hiện đã gây ra những chuyển đổi cơ cấu có tầm quan trọng to lớn. Có lẽ trường hợp điển hình về vấn đề này là Argentina, trong những năm 1990, đã nhanh chóng thực hiện tất cả các khuyến nghị của Đồng thuận Washington, dẫn đến một quá trình nợ quá mức và tháo chạy vốn, lên đến đỉnh điểm vào năm 2001 với cuộc khủng hoảng kinh tế và xã hội tồi tệ nhất trong lịch sử đất nước. Vào cuối năm 2001, Argentina tuyên bố vỡ nợ một phần khoản nợ nước ngoài lên tới hơn 100 tỷ USD, một trong những vụ vỡ nợ chính phủ lớn nhất trong lịch sử thế giới. Việc vỡ nợ chỉ xảy ra một phần vì nó không bao gồm việc vỡ nợ các khoản vay từ các tổ chức quốc tế chính, bao gồm cả IMF. [17]

Quá trình này, ở những mức độ khác nhau, đã được nhân rộng ở hầu hết các quốc gia trong khu vực, liên quan đến việc phân phối lại thu nhập một cách mạnh mẽ theo hướng có lợi cho các nhóm tư bản lớn trong nước và quốc tế, điều này sẽ không thể thực hiện được nếu không có sự can thiệp có chủ ý của IMF. Hoạt động với sự đồng lõa của địa phương, IMF đã tìm cách buộc các nước Mỹ Latinh thực hiện các chính sách này.

Sự khởi đầu của thế kỷ mới đánh dấu sự kết thúc của việc tích cực thực hiện các chính sách tân tự do trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế, chính trị và xã hội sâu sắc dẫn đến sự sụp đổ của mô hình kinh tế trước đó. Ở nhiều nước trong khu vực, các chính phủ tiến bộ mới đã được bầu ra, chỉ trích mạnh mẽ học thuyết tân tự do, vai trò của IMF và việc nhà nước rút khỏi việc cung cấp y tế công cộng, giáo dục, dịch vụ xã hội và nhà ở. Do đó, Néstor Kirchner, Luiz Inácio Lula da Silva, Evo Morales, Rafael Correa, và Hugo Chávez, cùng những người khác, đã xuất hiện với những mức độ thành công khác nhau trong việc tìm cách đảo ngược một số di sản khét tiếng nhất do chủ nghĩa tân tự do để lại. Trong số những thành tựu chính của họ, chúng ta có thể nêu bật một quá trình giảm nợ đáng kể ở các nước trong khu vực, tăng lương thực tế và giảm tỷ lệ thất nghiệp và nghèo đói. Ngoài ra, vào năm 2005, trong Hội nghị thượng đỉnh châu Mỹ ở Mar del Plata, Argentina, các nước đã khước từ cái gọi là Khu vực thương mại tự do châu Mỹ.

Một yếu tố quan trọng khác trong mối quan hệ giữa các nước Mỹ Latinh và IMF xảy ra vào năm 2006 khi Brazil và Argentina, một cách có tổ chức, quyết định trả trước các khoản nợ mà họ có với tổ chức quốc tế. [18] Điều này đặc biệt có ý nghĩa, cả về mặt số lượng liên quan (ví dụ, đối với Argentina, con số này chiếm 34% tổng dự trữ quốc gia), cũng như về việc chấm dứt sự can thiệp lâu dài của IMF vào chính sách trong nước thông qua việc áp đặt đủ loại điều kiện. Những lời của Tổng thống Kirchner khi đó tuyên bố xóa nợ đã phản ánh thực tế này: “Khoản nợ này thường xuyên là phương tiện để can thiệp vì nó phải được xem xét định kỳ và là nguồn gốc của những yêu cầu ngày càng nhiều, mâu thuẫn và trái ngược với mục tiêu chính sách nhằm tăng trưởng bền vững. Hơn nữa, bị biến dạng như mục đích của nó, Quỹ Tiền tệ Quốc tế đã hành động, đối với đất nước chúng ta, với tư cách là người thúc đẩy và là phương tiện thực hiện các chính sách gây ra nghèo đói và đau đớn cho người dân Argentina, sát cánh cùng các chính phủ được tuyên bố là sinh viên gương mẫu thường trực.” [19]

Sự mất uy tín của IMF do tác động của các chính sách kinh tế mà tổ chức này thúc đẩy lan rộng và sâu sắc đến mức các nước miền Trung (Bắc Đại Tây Dương) đã khởi xướng quá trình “đổi tên thương hiệu” IMF. Do đó, một số trí thức “hữu cơ” bắt đầu thừa nhận sự tồn tại của một IMF mới, một IMF đã học được từ những sai lầm của mình và đã sửa đổi và khắc phục một số lỗi kỹ thuật. Kết quả là, các cuộc thảo luận đã nảy sinh liên quan đến sự tồn tại của IMF được mô phỏng lại này, cơ quan này đề xuất sự xuất hiện của Đồng thuận Washington “mới” và “sửa đổi”. Tuy nhiên, trên thực tế, không có thay đổi đáng kể nào xảy ra trong tổ chức và các khuyến nghị của tổ chức tiếp tục phù hợp với quan điểm chủ đạo về kinh tế, tương hỗ với tư bản tài chính.

Để đối trọng với các chính phủ tiến bộ từng thống trị khu vực vào đầu thế kỷ 21, các đảng cánh hữu và cực hữu mới nổi lên khắp khu vực và bắt đầu tranh giành không gian chính trị. Được hỗ trợ và tài trợ mạnh mẽ bởi Hoa Kỳ, một số nhóm mới này đã lên nắm quyền trong thập kỷ thứ hai của thế kỷ XXI. Chúng bao gồm các trường hợp như Mauricio Macri ở Argentina, Michel Temer và Jair Bolsonaro ở Brazil, Lenín Moreno ở Ecuador, Enrique Peña Nieto ở Mexico, và Luis Lacalle Pou ở Uruguay, cùng những trường hợp khác. Do đó, một quá trình suy thoái kép về kinh tế và xã hội đã bắt đầu. Một mặt, có sự quay trở lại thực hiện các chính sách kinh tế tân tự do, bãi bỏ quy định thị trường, giảm vai trò của nhà nước, ưu tiên khu vực tài chính hơn khu vực sản xuất; mặt khác, nhiều chính phủ trong số này một lần nữa phải viện đến các khoản nợ bên ngoài với IMF để đảm bảo rằng, trong trường hợp các chính phủ tiến bộ giành được chiến thắng bầu cử mới, họ sẽ phải đối mặt với các điều kiện do bên ngoài áp đặt và phải tuân theo mệnh lệnh của IMF.

Một lần nữa, trường hợp tiêu biểu là Argentina, nơi Macri tiếp tục vay từ IMF vào năm 2018. Thông qua Thỏa thuận dự phòng, IMF đã cung cấp một gói hỗ trợ chưa từng có trong lịch sử của mình (44 tỷ USD) và bao gồm các khuyến nghị chính sách kinh tế cổ điển, chẳng hạn như như “củng cố tài khóa”, cải cách điều lệ của Ngân hàng Trung ương và thực hiện kế hoạch kiểm soát lạm phát. [20] Việc bơm dollar khổng lồ của IMF, vượt xa hạn ngạch tối đa cho Argentina, không thể hiểu được nếu không xem xét sự hỗ trợ rõ ràng mà chính phủ Donald Trump cung cấp cho đồng minh khu vực của mình trong bối cảnh tranh chấp với các chính phủ tiến bộ trong khu vực. [21] Về vấn đề này, Mauricio Claver-Carone, cựu Giám đốc điều hành Hoa Kỳ tại IMF, thừa nhận rằng chính Washington đã thúc đẩy chương trình hỗ trợ lớn nhất trong lịch sử của tổ chức này để “giúp đỡ Argentina”, ngay cả khi các đại diện châu Âu phản đối. Tuy nhiên, cựu Tổng thống Macri đã tuyên bố một cách đầy hoài nghi: “Chúng tôi đã sử dụng tiền IMF để trả cho các ngân hàng thương mại muốn rời đi vì họ sợ Chủ nghĩa Kirchner sẽ quay trở lại”. [22]

Tranh chấp vẫn còn mở, và ở một số nước trong khu vực, các chính phủ tiến bộ thay thế các chính phủ tân tự do. Điều rõ ràng là mối quan hệ của IMF với Mỹ Latinh cho thấy những tác động rộng và sâu sắc, tiếp tục định hình sự phát triển của Mỹ Latinh sau hơn 4 thập kỷ. Trong những năm này, IMF đã trở thành đại diện chính trị và kỹ thuật của các chủ nợ trong cộng đồng ngân hàng quốc tế ở Mỹ Latinh, chịu trách nhiệm thiết kế các chương trình điều chỉnh và giám sát việc thực hiện chúng. Ở khía cạnh này, các chủ nợ không muốn các quốc gia này giảm bớt gánh nặng nợ nần; đúng hơn, mục tiêu là kích thích tình trạng mắc nợ lâu dài, tối đa hóa lợi ích dưới hình thức trả nợ và áp dụng các chính sách phù hợp với lợi ích của chủ nợ, đảm bảo sự lệ thuộc của các quốc gia này trên trường quốc tế. IMF hoạt động hiệu quả để củng cố các nhóm tài chính và xã hội đang tàn phá nền kinh tế và xã hội của đất nước. Việc tái cơ cấu này làm tăng thêm tình trạng nghèo đói trong khu vực và triệt tiêu những nỗ lực nhằm tạo ra một cơ cấu sản xuất đáp ứng được nhu cầu của người dân.


Những thách thức của giai cấp công nhân Mỹ Latinh

Các tổ chức quốc tế không phải là các tổ chức trung lập. Chúng đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển của chủ nghĩa tư bản và về cơ bản phù hợp với lợi ích của các nhóm quyền lực ở các quốc gia dẫn đầu các tổ chức này. IMF đóng vai trò quan trọng trong việc áp dụng các kế hoạch điều chỉnh cơ cấu, dưới danh nghĩa “viện trợ”, đã cản trở sự phát triển kinh tế thực sự của các nước mắc nợ. Hơn nữa, rõ ràng là IMF hoạt động như một công cụ được giới tinh hoa cánh hữu ở địa phương sử dụng trong cuộc đấu tranh quốc gia của họ cho loại chính sách được áp dụng đồng thời đảm bảo sự phù hợp với mô hình toàn cầu hóa tân tự do đang thịnh hành ở cấp độ toàn cầu.

Ý nghĩa của phân tích này là rõ ràng. IMF tiếp tục đảm nhận vai trò ưu việt trong chính trị nội bộ của các nước “đang phát triển” đang gặp khó khăn nghiêm trọng do tiếp xúc với thị trường nợ quốc tế. Bẫy nợ ngày càng trầm trọng này dẫn đến việc khu vực công ở hầu hết các nước Mỹ Latinh không thể đáp ứng được yêu cầu của cơ sở xã hội (tầng lớp lao động, nông dân và những người khác “từ bên dưới”) vì quyền lực chính trị được kiểm soát bởi khu vực tài chính và các nhóm kinh doanh ngăn chặn một cách hiệu quả việc ban hành cơ cấu thuế lũy tiến. Hạn chế hơn nữa khả năng điều động của các chính phủ này, lợi nhuận từ việc khai thác tài nguyên thiên nhiên thường được phân bổ cho các dự án cơ sở hạ tầng để thúc đẩy mô hình sản xuất tân tự do. Nói rõ hơn điều này, một cuộc đấu tranh giai cấp đang được tiến hành, mà khu vực công cố gắng giảm thiểu bằng cách phát hành các khoản nợ công rõ ràng là không bền vững (không thể trả) trên thị trường tài chính toàn cầu. IMF can thiệp và gây áp lực buộc các chính phủ áp dụng các chính sách hạn chế nhằm trừng phạt có chủ đích quần chúng “bình dân”, tái cân bằng quy mô quyền lực theo hướng có lợi cho các nhóm giàu có.

Tình hình hiện tại ở thế giới “đang phát triển” đang thay đổi. Với những xung đột trong nước mà Hoa Kỳ đã trải qua và việc tìm kiếm các giải pháp thay thế cho quyền bá chủ của Hoa Kỳ cũng như đặc tính “phổ quát” của đồng đô la, có nhiều sáng kiến ​​khác nhau nhằm tìm ra những cách khác để tài trợ cho thương mại quốc tế. Đầu tiên, có những tiến bộ do Trung Quốc thực hiện, không chỉ về mặt kinh tế mà còn về mặt tài chính, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho giao dịch của nước này với các tài khoản bằng đồng tiền của nước này, đồng nhân dân tệ. Điều này nhất thiết hàm ý những nỗ lực lớn hơn nhằm thúc đẩy thương mại giữa gã khổng lồ châu Á và các đối tác mới thành lập, cũng như các sáng kiến ​​nhằm cung cấp một số hình thức cứu trợ cho nhiều quốc gia ở Nam bán cầu đang mắc nợ chồng chất với Trung Quốc do đầu tư vào cơ sở hạ tầng. Một lực lượng quốc tế mới đã ra đời dưới hình thức liên minh BRICS+ (Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc và Nam Phi), gần đây đã mở rộng sang các quốc gia khác. Điều này càng được thúc đẩy hơn nữa với việc Lula đắc cử lần thứ ba ở Brazil. Các quốc gia BRICS+ mong muốn giảm sự phụ thuộc quốc tế vào hệ thống do Hoa Kỳ và IMF lãnh đạo (và kiểm soát). Cuối cùng, Cộng đồng các quốc gia Mỹ Latinh và Caribe, được thành lập vào năm 2010, đang thảo luận về các đề xuất vẫn đang trong giai đoạn đàm phán thăm dò nhưng có thể trở thành một giải pháp thay thế. Những nỗ lực này vẫn còn non trẻ trong việc tạo ra một đối trọng thực sự trước sự thống trị của Mỹ. Tuy nhiên, chúng cho thấy sự vỡ mộng trước việc thực thi quyền lực đã làm nghiêng cán cân quyền lực theo hướng có lợi cho các tập đoàn tài chính quốc gia và quốc tế, gây tổn hại đến phúc lợi của đa số.

Quyền lực tài chính toàn cầu, có trụ sở tại Hoa Kỳ/Canada, Tây Âu và Nhật Bản, cũng đã trừng phạt mạnh mẽ nhiều nỗ lực nhằm thực hiện các chương trình môi trường “bền vững” có liên quan đến việc hạn chế đầu tư khai thác vốn sẽ gây thiệt hại đáng kể cho các kế hoạch mở rộng tư bản trên toàn thế giới. Đây là một khía cạnh khác của đầu tư nước ngoài, điều đang gây ra xung đột lớn ở các quốc gia “tiếp nhận” các khoản đầu tư này, chủ yếu ảnh hưởng đến các nhóm xã hội như nông dân sản xuất trên quy mô nhỏ và người dân bản địa, những người không có khả năng tự vệ trong các tình huống quốc gia. Cán cân quyền lực ở một số quốc gia Nam bán cầu này đang bắt đầu thay đổi ở một mức độ nào đó do nhận thức rõ hơn về quyền và sự đóng góp của các nhóm địa phương khi đối mặt với các cuộc khủng hoảng xã hội, kinh tế và môi trường hiện nay. Họ hiện đang tham gia vào các nỗ lực đa dạng để thành lập các liên minh quốc gia và quốc tế nhằm thực hiện các yêu cầu của mình. [23]

IMF tiếp tục đóng một vai trò quan trọng trong việc tái cơ cấu và mở rộng sự thống trị của tư bản tài chính quốc tế đối với các nguồn lực sản xuất địa phương, can thiệp để giải quyết tranh chấp giữa các tầng lớp xã hội trong các quốc gia bằng cách đẩy mạnh việc củng cố giai cấp tư bản địa phương, những kẻ phụ thuộc vào mệnh lệnh và quyền lực của tư bản quốc tế. Tương tự như vậy, chúng tôi hiểu rằng trên khắp Châu Mỹ Latinh, áp lực ngày càng tăng từ IMF rõ ràng là nhằm ngăn chặn hoặc chèn ép mọi nỗ lực nổi dậy dân tộc. Do đó, việc chính phủ quốc gia “tiến bộ” hay thậm chí trung dung đến mức nào, hay các nhóm lực lượng nào đang hoạt động ở cấp quốc gia, mà nền chính trị trong nước sở hữu, đều trở nên không liên quan, vì chúng luôn bị hạn chế sâu sắc bởi bản chất của tài chính quốc tế. Ngày nay, thách thức đặt ra đối với các lực lượng tiến bộ trong khu vực – và ở Nam bán cầu nói chung – là làm thế nào để tổ chức một phe đối lập đối kháng sẽ hạn chế tính hiệu quả của IMF.

*Ghi chú:

[1] ↩ David Barkin và Gustavo Esteva, Inflación y Democracia: El caso de México (Mexico: Siglo XXI Editores, 1979). Để có bản tóm tắt bằng tiếng Anh, xem David Barkin và Gustavo Esteva, “Xung đột xã hội và lạm phát ở Mexico,” Latin American Perspectives 9, no. 1 (1982): 48–64.

[2] ↩ Richard Peet, Bộ ba xấu xa: IMF, Ngân hàng Thế giới và WTO (London: Zed Books, 2003).

[3] ↩ Peet, Chúa Ba Ngôi bất thánh .

[4] ↩ Quỹ Tiền tệ Quốc tế, “ IMF và các cơ quan có thẩm quyền của Argentina đạt được Thỏa thuận cấp độ nhân viên về Quỹ mở rộng ,” thông cáo báo chí số. 22/56, ngày 3 tháng 3 năm 2022.

[5] ↩ Eric Toussaint, “ Tại sao lại có Kế hoạch Marshall? ,” Ủy ban Xóa nợ Bất hợp pháp, ngày 7 tháng 2 năm 2024.

[6] ↩ Toussaint, “Tại sao lại có Kế hoạch Marshall?”

[7] ↩ Nhóm lực lượng kinh tế mới này đã được tiếp tay một cách đáng kể nhờ sự can thiệp toàn diện của một nhóm cố vấn kinh tế mới do “Chicago Boys” lãnh đạo, với sự lãnh đạo trí tuệ của Milton Friedman và Arnold Harberger.

[8] ↩ Diana Tussie, “ La Concertación de Deudores: Las negociaciones financieras en América Latina ,” Ola Financiera 8, no. 20 (2015): 201.

[9] ↩ Robert Devlin, Nợ và Khủng hoảng ở Mỹ Latinh: Mặt cung của câu chuyện (Princeton: Nhà xuất bản Đại học Princeton, 1989).

[10] ↩ Carlos Alfredo Justo Parodi Trece , “ La Crisis de la Deuda en América Latina de la década de los ochenta ,” Tài liệu nghiên cứu, Universidad del Pacífico Centro de Investigación, Lima, 2015.

[11] ↩ John Williamson, Sự điều chỉnh của Mỹ Latinh: Bao nhiêu chuyện đã xảy ra (Washington, DC: Viện Kinh tế Quốc tế, 1990).

[12] ↩ José Eduardo Navarrete, “ Chính trị ngoại vi và đàm phán tài chính quốc tế: la deuda externa y el Consenso de Cartagena ,” Revista de la CEPAL , no. 27 (1985): 7–26; Manuel Pastor, “Mỹ Latinh, cuộc khủng hoảng nợ và Quỹ tiền tệ quốc tế,” Quan điểm Mỹ Latinh 16, số 1. 1 (1989): 79–110.

[13] ↩ José Antonio Ocampo, “Cuộc khủng hoảng nợ ở Mỹ Latinh dưới góc nhìn lịch sử” trong Cuộc sống sau nợ: Nguồn gốc và cách giải quyết khủng hoảng nợ, Joseph Stiglitz, ed. (London: Palgrave Macmillan, 2014), 87–115.

[14] ↩ Barbara Stallings, “La economía política de las negociaciones de la deuda: América Latina en la década de los ochenta,” trong José A. Ocampo, Barbara Stallings, Inés Bustillo, Helvia Belloso và Roberto Frenkel, La Crisis latinoamericana de la deuda desde la Perspectiva histórica , CEPAL (Santiago: Comisión Económica para América Latina y el Caribe, 2014), 71.

[15] ↩ Juan Santarcángelo, “Cuộc khủng hoảng tài chính và nợ nần ở Argentina năm 2019,” trong Bách khoa toàn thư về khủng hoảng tài chính , Sara Hsu, ed. (Northampton: Edward Elgar, 2023), 351–53.

[16] ↩ Ngay cả tạp chí Expansión, được xuất bản bởi và dành cho tầng lớp doanh nhân và ngân hàng, đã mô tả nó “là một hành động tham nhũng và chủ nghĩa cơ hội của các chủ ngân hàng, những người đã xếp các khoản nợ của các tổ chức là quá hạn và được chính phủ giải cứu” ( Selene Ramírez, “Claves para entender qué es el Fobaproa y por qué se sigue pagando,” Expansión , ngày 7 tháng 6 năm 2023). Để xem xét và đánh giá toàn diện quy trình, hãy xem Andrés Manuel López Obrador, Fobaproa: expediente abierto. Reseña y Archivo (México: Grijalbo, 1999), và đặc biệt là đĩa CD đi kèm chứa đựng những dữ liệu quý giá.

[17] ↩ Juan Santarcángelo và Juan Manuel Padín, “Endeudamiento en Argentina: khủng hoảng, Factores estructurales y condicionantes de largo plazo (2001–2021),” Realidad Económica 52, no. 351 (2022): 94–101.

[18] ↩ Eduardo Basualdo, Estudios de Historia Económica Argentina. Desde Mediados del Siglo XX a la realidad (Buenos Aires: Siglo XXI Editores, 2006).

[19] ↩ Néstor Kirchner, “ Palabras del Presidente de la Nación, Néstor Kirchner, en el acto de anuncio del plan de desendeudamiento con el fondo monetario internacional ,” Casa Rosado, Argentina, ngày 15 tháng 12 năm 2005, casarosada.gob.ar.

[20] ↩ Quỹ Tiền tệ Quốc tế, “ IMF và các cơ quan có thẩm quyền của Argentina đạt được Thỏa thuận cấp độ nhân viên về Quỹ mở rộng .”

[21] ↩ Khoản tín dụng lên tới 1,277% hạn ngạch của Argentina—lớn hơn nhiều so với mức cho phép thông thường theo hướng dẫn điều hành của nước này. Người ta cho rằng hoạt động này là kết quả của sự can thiệp trực tiếp của chế độ Donald Trump. Nó đã bị chỉ trích mạnh mẽ bởi các nhóm quan trọng trong đội ngũ nhân viên của Quỹ và bị đặt câu hỏi rộng rãi trên báo chí tài chính quốc tế (Santarcángelo và Padín, “Endeudamiento en Argentina”).

[22] ↩ “Mauricio Macri: ‘La plata del FMI la usamos para pagarle a bancos comerciales que tenían miedo de que volviera el kirchnerismo,’” Perfil , ngày 11 tháng 8 năm 2021.

[23] ↩ Ví dụ, hãy xem lịch sử của La Via Campesina ( viacampesina.org ), tổ chức xã hội lớn nhất thế giới, với hơn 200 triệu thành viên ở 81 quốc gia, đang thúc đẩy các tổ chức cộng đồng phổ biến khả năng tự cung cấp lương thực địa phương với các hệ thống sinh thái nông nghiệp. Ngoài ra còn có tập đoàn quốc tế “Lãnh thổ của sự sống” ở hơn hai trăm quốc gia, qua đó các thành viên cộng đồng đang thúc đẩy quyền tự chủ của địa phương và cam kết thực hiện các biện pháp bảo tồn bao trùm hơn một phần tư lãnh thổ hành tinh ( iccaconsortium.org ). Tấm thảm thay thế toàn cầu là một mạng lưới khác kết nối các cộng đồng ở hàng chục quốc gia để hỗ trợ các sáng kiến ​​độc lập chính trị của họ và tăng cường khả năng thúc đẩy phúc lợi địa phương ( globaltapestryofalternatives.org ).


David Barkin và Juan Santarcángelo, Đáng giá hàng tháng


– David Barkin là giáo sư xuất sắc tại Đại học Tự trị Metropolitan ở Thành phố Mexico, thành viên danh dự của Hội đồng Nghiên cứu Quốc gia và là người nhận Giải thưởng Quốc gia về Kinh tế Chính trị (1979). Năm 2016, ông được trao vị trí nghiên cứu từ Quỹ Alexander von Humboldt ở Đức. 

– Juan Santarcángelo là nhà nghiên cứu tại Hội đồng Nghiên cứu Khoa học và Kỹ thuật Quốc gia, đồng thời là Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Phát triển, Đổi mới và Kinh tế Chính trị tại Đại học Quốc gia Quilmes, Argentina.

Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận