CƯƠNG LĨNH ĐẢNG CỘNG SẢN NGA

(Được thông qua tại Đại hội Đảng Cộng sản Nga lần thứ tám, tổ chức từ ngày 18 đến 28 tháng 3 năm 1919)


Cách mạng tháng Mười một [25 tháng 10, lịch cũ; Ngày 11 tháng 11, lịch mới, năm 1917] ở Nga, hiện thực hóa chế độ chuyên chính vô sản, bắt đầu xây dựng nền tảng của xã hội cộng sản, với sự trợ giúp của nông dân nghèo hoặc giai cấp bán vô sản. Sự phát triển của cuộc cách mạng ở Đức và Áo-Hung, sự lớn mạnh của phong trào cách mạng của giai cấp vô sản ở tất cả các đất nước tiên tiến, sự lan rộng của hình thức Xô Viết của phong trào đó (hình thức nhằm trực tiếp hiện thực hóa chuyên chính vô sản) – những điều này kết hợp lại cho thấy rằng thời đại của cuộc cách mạng cộng sản vô sản trên toàn thế giới đã bắt đầu.

Cuộc cách mạng này là kết quả tất yếu của sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, cho đến nay vẫn thống trị ở phần lớn các quốc gia văn minh. Nếu chúng ta bỏ qua cách gọi tên sai lầm của đảng là “dân chủ xã hội” và thay vào đó sử dụng từ “cộng sản”, cương lĩnh cũ của chúng ta đã mô tả chính xác bản chất của chủ nghĩa tư bản và xã hội tư sản sau đây:

“Đặc điểm chính của xã hội này là, chúng ta có nền sản xuất hàng hóa dựa trên nền tảng của các mối quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, theo đó phần quan trọng và ý nghĩa nhất của phương tiện sản xuất và phân phối hàng hóa thuộc sở hữu của một tầng lớp tương đối nhỏ, trong khi tuyệt đại đa số dân chúng bao gồm những người vô sản và bán vô sản, do vị thế kinh tế của họ buộc phải bán sức lao động của mình vĩnh viễn hoặc bất cứ lúc nào, nghĩa là trở thành những người làm công ăn lương phục vụ các nhà tư bản, và để tạo ra thu nhập của các tầng lớp cao hơn trong xã hội bằng sức lao động của họ.

“Phạm vi quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa liên tục mở rộng tương ứng với việc cải tiến kỹ thuật liên tục, điều này làm tăng tầm quan trọng kinh tế của các doanh nghiệp quy mô lớn và dẫn đến việc loại bỏ các nhà sản xuất nhỏ độc lập, chuyển đổi một số họ thành vô sản, hạn chế vai trò phần còn lại trong đời sống xã hội và kinh tế, và ở nhiều nơi khiến họ trở nên ít nhiều hoàn toàn, ít nhiều hiển nhiên, ít nhiều cùng khổ- những người phụ thuộc vào tư bản.

“Hơn nữa, tiến bộ kỹ thuật này cho phép các doanh nhân, ở quy mô ngày càng tăng, áp dụng sức lao động của phụ nữ và trẻ em vào quá trình sản xuất và phân phối hàng hóa. Mặt khác, nó dẫn đến sự hạn chế tương đối cầu của các doanh nhân về sức lao động của người lao động, do đó cầu về sức lao động nhất thiết phải thấp hơn cung. Do đó, thứ nhất, làm phát sinh sự phụ thuộc của lao động làm công vào tư bản, và thứ hai, tăng tỷ lệ bóc lột.

“Tình trạng này ở các nước tư bản, và việc các nước này tiếp tục tăng cường cạnh tranh trên thị trường thế giới, làm phát sinh ngày càng nhiều khó khăn hơn trong việc xử lý các mặt hàng được sản xuất với số lượng liên tục tăng lên. Sản xuất thừa, biểu hiện ở việc ngày càng có nhiều những cuộc khủng hoảng sản xuất mà kéo theo sau đó là những thời kỳ trì trệ kéo dài, là kết quả tất yếu của sự phát triển sức mạnh sản xuất trong xã hội tư sản. Các cuộc khủng hoảng và thời kỳ mà sản xuất bị đình trệ, đến lượt nó, lại dẫn đến sự phá sản ngày càng lan rộng của các nhà sản xuất nhỏ lẻ, gia tăng sự phụ thuộc của lao động làm công vào tư bản, và làm cho địa vị của giai cấp công nhân ngày càng tệ đi.

“Theo đó, sự phát triển trình độ kỹ thuật, mà hệ quả của nó là sự gia tăng năng suất lao động và của cải trong xã hội, cũng đã làm gia tăng trong lòng xã hội tư sản bất bình đẳng, làm cho hố sâu ngăn cách giữa người có (của cải) và người không-có thêm rộng, làm cho cuộc sống (của họ) thêm bất ổn, làm tăng mức thất nghiệp và tạo ra ngày càng nhiều hình thức bóc lột quần chúng lao động.

“Xã hội tư sản càng lớn mạnh và phát triển, thì tương ứng với nó là sự gia tăng (một cách đối nghịch) bất mãn trong quần chúng cần lao bị bóc lột với trật tự xã hội hiện tồn và cả lòng đoàn kết của giai cấp vô sản cũng như sự quyết liệt trong cuộc đấu tranh chống lại kẻ bóc lột họ.

Đồng thời với sự phát triển trình độ sản xuất là sự tập trung tư liệu sản xuất và phân phối cũng như sự xã hội hóa quá trình sản xuất theo hướng tư bản chủ nghĩa; quá trình ấy tạo ra với tốc độ ngày càng nhanh hơn một sự chuyển hóa phương thức sản xuất từ tư bản chủ nghĩa sang cộng sản chủ nghĩa; nó sẽ tạo ra một cuộc cách mạng. Điều ấy có nghĩa là (quá trình đó) tạo ra một cuộc cách mạng, tức là mục tiêu sau cùng của mọi đảng phái cộng sản quốc tế, và là biểu hiện tự giác của phong trào giai cấp.

 

Bằng việc chuyển hóa sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất và phân phối hàng hóa sang sở hữu toàn xã hội, dẫn tới sự hình thành quá trình sản xuất hàng hóa (thuộc về) toàn xã hội nhằm đảm bảo sự phồn vinh và phát triển toàn diện cho tất cả mọi người, cách mạng vô sản sẽ đặt dấu chấm hết cho sự phân chia giai cấp trong xã hội, và từ đó giải phóng nhân loại bị áp bức, cũng như xóa bỏ chế độ người bóc lột người.

“Điều kiện cần thiết để thực hiện một cuộc cách mạng (như vậy) là một nền chuyên chính vô sản, tức là giai cấp vô sản phải giành được quyền lực chính trị đủ lớn để khống chế lại sự phản động từ tầng lớp bóc lột. Với quyết tâm lãnh đạo giai cấp vô sản hoàn thành nhiệm vụ lịch sử lớn lao này, Quốc tế Vô sản tập hợp những người vô sản thành một đảng phái chính trị độc lập và đối lập với mọi đảng phái tư sản, cũng như lãnh đạo công nhân trong mọi vấn đề đấu tranh giai cấp; khiến cho giai cấp vô sản hiểu được rằng mâu thuẫn lợi ích giữa họ với tầng lớp bóc lột là không thể tránh khỏi, và giúp cho giai cấp vô sản hiểu được tầm quan trọng mang tính lịch sử cũng như những điều kiện tiên quyết của cuộc cách mạng. Mặt khác, Đảng cũng cần cho những quần chúng khác đang bị bóc lột thấy được tình cảnh tuyệt vọng của họ trong xã hội tư sản, và rằng một cuộc cách mạng sẽ phải xảy ra hòng giúp họ thoát khỏi cái ách của chủ nghĩa tư bản. Một đảng cộng sản thuộc về giai cấp công nhân, kêu gọi hết thảy những quần chúng cần lao chừng nào họ đã hiểu và chấp nhận cách nhìn của giai cấp vô sản.

Quá trình tập trung và tập quyền của tư bản, qua đó thủ tiêu sự tự do cạnh tranh (thị trường), đã tạo ra các hình thức liên doanh tư bản độc quyền rất có vị thế – bao gồm xanh-đi-ca (syndicates), các-ten (cartels) và tờ-rớt (trusts) –  và cũng có vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế; sự hình thành ấy cũng dẫn tới cả sự hợp nhất các tổ chức ngân hàng vốn (tư bản) với tư bản công nghiệp tập trung cao độ, và sự lưu chuyển mạnh mẽ của dòng tư bản sang các nước khác. Các tờ-rớt bao gồm những tập đoàn chính trị tư sản bắt đầu chia tách thế giới theo (vị thế) kinh tế, ở một thế giới vốn đã có sự phân hóa theo lãnh thổ giữa các nước giàu. Kỷ nguyên này của tư bản tài chính chính là kỉ nguyên của chủ nghĩa đế quốc, tất yếu làm gia tăng mâu thuẫn giữa các nhà nước tư sản.

Vậy là, những cuộc chiến giữa các đế quốc tất yếu sẽ diễn ra, mà (về bản chất) là cuộc chiến tranh giành thị trường, tranh giành quyền đầu tư tư bản, tranh giành nguyên liệu thô và sức lao động, hay nói đúng hơn là giành quyền thống trị thế giới và thống trị các nước nhỏ và yếu hơn mình. Đó chính là cuộc chiến tranh giữa các đế quốc từ năm 1914 tới 1918..

Sự phát triển rộng khắp của chủ nghĩa tư bản trên thế giới, sự biến đổi từ nền (kinh tế thị trường) tự do cạnh tranh sang nền kinh tế tư bản độc quyền; sự ra đời của hệ thống ngân hàng và các liên doanh tư bản; sự ra đời của cơ chế liên doanh ấy trong sản xuất và phân phối hàng hóa; sự gia tăng (đắt đỏ) chi phí sinh hoạt; sự áp bức công nhân của các ông chủ xanh-đi-ca, sự nô dịch tầng lớp lao động dưới chính quyền đế quốc, khó khăn to lớn trước mắt giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh kinh tế và chính trị (một hiện tượng tất yếu gắn với sự phát triển tư bản độc quyền); nỗi khổ, sự nghèo đói, và sự tàn phá đến từ cuộc chiến tranh đế quốc – tất cả những điều này sẽ góp phần đưa đến sự cáo chung của chủ nghĩa tư bản và sự tiếp nối của một hình thái kinh tế – xã hội cấp tiến hơn.

  • 32. Chiến tranh đế quốc không thể kết thúc theo một cách ‘hòa bình công bằng’ hoặc một cách ‘hòa bình ổn định’ nào đó giữa các chính phủ tư sản. Ở vào giai đoạn phát triển mà chủ nghĩa tư bản đã đạt được hiện nay thì cuộc chiến tranh này sẽ phải chuyển hóa một cách không thể tránh khỏi, và đang chuyển hóa, dưới con mắt của tất cả chúng ta, thành một cuộc nội chiến giữa các tầng lớp quần chúng cần lao bị bóc lột (do giai cấp vô sản lãnh đạo) và giai cấp tư sản.

Những cuộc tấn công dữ dội của giai cấp vô sản, và những chiến thắng đã giành được của công nhân ở những đất nước khác nhau đã làm gia tăng sự phản kháng của giai cấp bóc lột, và đã dẫn đến hình thành những hình thức mới của sự liên minh quốc tế giữa các nước tư sản (Hội Quốc Liên, v.v…; những tổ chức này, ở quy mô quốc tế, bằng cách bóc lột có hệ thống toàn thể người dân trên toàn cầu, và tập trung mọi lực lượng của chúng, nhằm tiêu diệt hoàn toàn phong trào vô sản ở tất cả các nước.

Tất cả điều này không tránh khỏi dẫn đến tình trạng các cuộc nội chiến trong phạm vi mỗi quốc gia, với những cuộc chiến tranh cách mạng; những cuộc nội chiến này, một phần do các Nhà nước vô sản tiến hành nhằm tự bảo vệ mình chống lại các cuộc tấn công của giai cấp tư sản, và một phần do những người dân bị áp bức đang nỗ lực lật đổ ách thống trị của các Nhà nước đế quốc.

Trong những hoàn cảnh này, những khẩu hiệu về phản đối chiến tranh, giải trừ quân bị quốc tế chủ nghĩa tư bản, thành lập các tòa án trọng tài, vv… là những thứ còn tệ hơn cả ‘chủ nghĩa không tưởng cực hữu’; Đó là những sự lừa dối đối với giai cấp công nhân, nhằm phá hoại lực lượng vũ trang của giai cấp vô sản và làm lạc hướng khỏi việc tước đoạt vũ khí của giai cấp bóc lột.

Chỉ có giai cấp vô sản, cách mạng cộng sản chủ nghĩa mới có thể dẫn dắt loài người thoát khỏi tình trạng tuyệt vọng mà chủ nghĩa đế quốc và các cuộc chiến tranh đế quốc gây ra. Bất chấp những khó khăn to lớn trên con đường cách mạng, những thất bại tạm thời có thể xảy ra, bất chấp những cơn sóng phản cách mạng, giai cấp vô sản cuối cùng cũng sẽ giành được thắng lợi.

Để giành được thắng lợi của cách mạng vô sản toàn thế giới, điều cơ bản là phải có được một sự tin tưởng lẫn nhau tuyệt đối, một sự đoàn kết anh em thắm thiết, và sự gắn kết chặt chẽ nhất có thể trong các hành động cách mạng của giai cấp công nhân ở những nước phát triển tiên tiến hơn cả.

Những điều kiện này không thể đạt được nếu không thực hiện một cách nguyên tắc việc cắt đứt quan hệ và đấu tranh không thương xót đối với xu hướng cải lương tư sản của chủ nghĩa xã hội, xu hướng này đang thống trị trong các đảng xã hội chủ nghĩa và dân chủ xã hội hàng đầu hiện nay.

Trong xu hướng tư sản cải lương này, mặt khác, đã xuất hiện xu hướng cơ hội chủ nghĩa và chủ nghĩa xã hội dân tộc cực đoan – thứ xu hướng tự gọi mình là chủ nghĩa xã hội nhưng thực chất là chủ nghĩa dân tộc cực đoan [jingoism], cái mặt nạ của những người bảo vệ lợi ích kẻ cướp của giai cấp tư sản của đất nước họ dưới vỏ bọc của những khẩu hiệu giả dối là bảo vệ tổ quốc – một khẩu hiệu được áp dụng vừa cụ thể, vừa phổ biến, đối với cuộc chiến tranh đế quốc chủ nghĩa 1914 – 1918. Xu hướng này xuất hiện bởi vì sự cướp bóc thuộc địa và sự áp bức các quốc gia yếu đuối của các Nhà nước tư bản chủ nghĩa tiên tiến đã làm cho giai cấp tư sản ở các nước này, ngoài những khoản lợi to lớn thu được từ những sự cướp bóc như vậy, còn trao cho một bộ phận thành viên có tay nghề cao hơn của giai cấp vô sản một địa vị ưu đãi, và như thế đã mua được họ – trong thời kỳ hòa bình – bằng cách trao cho họ một địa vị tiểu tư sản với nhiều ưu đãi; đồng thời giai cấp tư sản đã sử dụng những người lãnh đạo của tầng lớp ‘công nhân quý tộc’ này để làm việc cho họ. Những kẻ cơ hội chủ nghĩa và những người xã hội chủ nghĩa dân tộc cực đoan này đã trở thành những kẻ phục vụ của giai cấp tư sản; họ đã trở thành những kẻ thù giai cấp trực tiếp của giai cấp vô sản, đặc biệt là hiện nay, trong khi liên kết với giai cấp tư sản, những kẻ này đang nỗ lực sử dụng vũ trang để tiêu diệt phong trào cách mạng của giai cấp vô sản ở chính đất nước họ và ở các nước khác.

Một mặt khác, cùng với sự phát triển của xu hướng cải lương tư sản này của chủ nghĩa xã hội, cũng đã xuất hiện xu hướng phái giữa [the centrist]; phái này biểu hiện cùng một cách như nhau ở tất cả các nước tư bản chủ nghĩa. Phái giữa ngả nghiêng giữa chủ nghĩa xã hội dân tộc cực đoan và chủ nghĩa cộng sản, duy trì sự liên kết với những người xã hội chủ nghĩa dân tộc cực đoan, và cố gắng xây dựng lại Quốc tế II đã bị phá sản. Với vai trò là người lãnh đạo trong cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản, chỉ có một tổ chức mới và duy nhất là Quốc tế Cộng sản III, và Đảng Cộng sản Nga là thành viên của nó.

(…) Quốc tế này trên thực tế đã được thành lập bởi tổ chức các đảng cộng sản đi lên từ những vô sản chân chính giữa các đảng xã hội chủ nghĩa ở các nước, đặc biệt là ở Đức; được chính thức thành lập vào tháng 3 năm 1919 và phiên họp đầu tiên đã được tổ chức tại Mátxcơva. Quốc tế Cộng sản ngày càng nhận được nhiều sự ủng hộ của quần chúng vô sản ở mọi miền đất, đã quay trở lại với chủ nghĩa Mác, không chỉ trên danh nghĩa như trong tên gọi, mà còn cả về nguyên lý tư tưởng và chính trị; và hiện thực hóa lời dạy cách mạng của Marx trong tất cả các hoạt động của mình, loại bỏ những kẻ cơ hội tư sản.

Nhận thức một cách cụ thể các nhiệm vụ của chế độ chuyên chính vô sản được áp dụng cho nước Nga, một vùng đất có đặc thù đáng chú ý nhất là tầng lớp tiểu tư sản chiếm đa số, Đảng Cộng sản Nga đã xác định những nhiệm vụ này theo cách sau:

CHÍNH TRỊ TỔNG QUAN

Một nước cộng hòa tư sản, dù dân chủ đến đâu, được thần thánh hóa bởi những ngôn từ thể hiện ý chí của nhân dân, ý chí của toàn dân tộc, ý chí của mọi tầng lớp, tất yếu thể hiện – qua thực tế là nó dựa trên quyền sở hữu tư nhân về đất đai và các phương tiện sản xuất khác – chế độ độc tài của giai cấp tư sản, một bộ máy dùng để bóc lột và áp bức phần lớn người lao động bởi bè lũ tư bản. Ngược lại, dân chủ vô sản hay dân chủ Xô Viết biến đổi các tổ chức quần chúng của những người bị áp bức bởi giai cấp tư bản, của những người vô sản và những người bán vô sản (những người nông dân nghèo) – nghĩa là, của đại đa số dân chúng – thành nền tảng thường trực, thống nhất của toàn bộ bộ máy Nhà nước, địa phương và trung ương, từ dưới lên trên. Qua đó, Nhà nước Xô viết hiện thực hóa chính quyền địa phương tự trị dưới một hình thức rộng lớn hơn bao giờ hết, không có bất kỳ loại quyền lực nào từ bên trên tác động xuống. Đảng của chúng ta có nhiệm vụ làm việc không ngừng nghỉ thay mặt cho sự ra đời hoàn chỉnh của loại hình dân chủ cao hơn ấy; và liên tục nâng cao trình độ văn hóa, tổ chức và sức mạnh chủ động của quần chúng để vận hành nền dân chủ ấy thành công.

Trái ngược với chế độ dân chủ tư sản che giấu tính chất giai cấp của Nhà nước tư bản, Quyền lực Xô viết công khai công nhận rằng, mọi Nhà nước chắc chắn sẽ có tính chất giai cấp cho đến khi sự phân chia xã hội thành các giai cấp hoàn toàn biến mất, và tất cả quyền lực Nhà nước sẽ biến mất. Nhà nước Xô Viết, về bản chất, đã dẫn đến việc dập tắt sự phản kháng của những kẻ bóc lột, và Hiến pháp Liên Xô, dựa trên ý tưởng rằng tất cả tự do đều là dối trá khi nó xung đột với việc giải phóng lao động từ ách thống trị của tư bản, không ngần ngại tước đoạt các quyền chính trị của những kẻ bóc lột. Đảng của chúng ta, đảng của giai cấp vô sản, trong khi bóp chết sự phản kháng của những kẻ bóc lột như một lẽ đương nhiên, và đấu tranh trong lĩnh vực tư tưởng chống lại những thành kiến ​​đã ăn sâu về các quyền và tự do tư sản được coi là bất khả xâm phạm, đồng thời phải làm rõ ràng rằng, việc tước bỏ các quyền chính trị và bất kỳ giới hạn nào ngăn chặn tự do, chỉ cần thiết như những biện pháp tạm thời để đối phó với những nỗ lực của những kẻ bóc lột nhằm giành lại những đặc quyền của họ.

Cùng lúc với sự biến mất của khả năng khách quan về việc con người bóc lột con người, cũng sẽ không còn nhu cầu đối với các biện pháp tạm thời này, và đảng sẽ hướng tới việc hạn chế chúng và cuối cùng là xóa bỏ hoàn toàn chúng.

Nền dân chủ tư sản được tổ chức dựa trên sự phổ biến chính thức của các quyền và tự do chính trị: ví dụ, quyền hội họp công khai, quyền nghiệp đoàn, tự do báo chí; tất cả các công dân được coi là bình đẳng về các khía cạnh này. Nhưng trên thực tế, vì liên quan đến thực tiễn hành chính, và hơn hết là đối với chế độ nô lệ kinh tế của họ, dưới chế độ dân chủ tư sản, người lao động luôn bị xếp dưới, và không thể thực hiện được các quyền và tự do này ở mức độ đáng kể.

Ngược lại, dân chủ vô sản, thay vì chính thức tuyên bố các quyền và tự do, trên thực tế lại thực hiện các quyền và tự do này trước hết và hơn hết là cho chính tầng lớp dân số bị chủ nghĩa tư bản áp bức, cụ thể là cho giai cấp vô sản và giai cấp nông dân. Vì lý do này, Chính quyền Xô Viết tịch thu tài sản của giai cấp tư sản, tức là máy in ấn, kho lưu trữ giấy, v.v., để đặt chúng hoàn toàn vào quyền sử dụng của công nhân và các tổ chức của họ.

Đảng Cộng sản Nga phải giúp nhiều hơn nữa quần chúng lao động tiếp cận và tận dụng các quyền và tự do dân chủ, và Đảng phải mở rộng các khả năng vật chất theo hướng này.

  • 54. Chỉ nhờ có tổ chức Xô Viết về Nhà nước, cách mạng vô sản mới có thể chỉ bằng một đòn duy nhất đã lật đổ và san bằng nền tảng của bộ máy Nhà nước cũ của giai cấp tư sản, và cùng với đó là chế độ quan liêu và bộ máy tư pháp của nó. Tuy nhiên, trình độ văn hóa tương đối thấp của quần chúng, sự thiếu kinh nghiệm cần thiết cho công việc hành chính ở những người mà quần chúng triệu tập để đảm nhiệm các chức vụ có trách nhiệm, đòi hỏi phải cung cấp những khuyến khích đặc biệt cho các chuyên gia của chế độ cũ, những người đòi hỏi vật chất cho sự phục vụ của mình, và cùng với đó là sự bào mòn tầng lớp tiên tiến nhất của công nhân thành thị (những người phải phục vụ chiến tranh), đã dẫn đến sự hồi sinh phần nào chế độ quan liêu trong hệ thống Xô Viết.

Tham gia vào cuộc đấu tranh quyết định với tệ quan liêu, Đảng Cộng sản Nga chủ trương thực hiện các biện pháp sau để xóa bỏ hoàn toàn tệ nạn này:

  1. Mọi thành viên của Xô Viết phải đảm nhận một số công việc nhất định trong công tác quản lý. 
  2. Phải có sự luân chuyển liên tục giữa những người tham gia các nhiệm vụ đó, để mỗi thành viên lần lượt có được kinh nghiệm trong mọi lĩnh vực quản lý.
  3. Dần dần, toàn bộ nhân số lao động phải được khuyến khích thay phiên nhau tham gia các công tác quản lý.

Việc áp dụng toàn diện và nhiều mặt của tất cả các biện pháp này (thể hiện những bước tiến xa hơn trên con đường mà Công xã Paris đã đi tiên phong), kết hợp với việc đơn giản hóa chức năng quản lý khi người lao động đã đạt được trình độ văn hóa cao hơn, sẽ dẫn đến sự biến mất của quyền lực Nhà nước.

VẤN ĐỀ DÂN TỘC

Đối với vấn đề dân tộc, Đảng cộng sản Nga đã thông qua những điều sau:
1. Tầm quan trọng hàng đầu là chủ trương đoàn kết những người vô sản và bán vô sản thuộc mọi dân tộc trong một cuộc đấu tranh cách mạng chung nhằm lật đổ giai cấp địa chủ và tư sản.

  • 58. 2. Để khắc phục sự hoài nghi của quần chúng lao động ở bất kỳ vùng đất bị áp bức nào đối với giai cấp vô sản của những nhà nước áp bức, điều cần thiết là phải bãi bỏ mọi đặc quyền đối với bất kỳ nhóm dân tộc nào, để đảm bảo hoàn toàn bình đẳng dân tộc và công nhận rằng các thuộc địa và các dân tộc bị áp bức có toàn quyền ly khai.
  1. Để đảm bảo những mục tiêu này, đảng đề xuất (như một bước chuyển tiếp hướng tới liên minh hoàn chỉnh) một liên bang hợp nhất tất cả các Quốc gia được tổ chức trên cơ sở Xô Viết.
  • 59. 4. Đối với câu hỏi, Ai được quyền bày tỏ ý chí ly khai của dân tộc, Đảng cộng sản Nga áp dụng quan điểm giai cấp lịch sử, xem xét giai đoạn phát triển lịch sử của cụ thể các dân tộc, chẳng hạn, dân tộc đó đang chuyển từ chủ nghĩa trung cổ sang nền dân chủ tư sản, từ nền dân chủ tư sản sang nền dân chủ vô sản hay Xô Viết, v.v…

Trong mỗi trường hợp, về phía giai cấp vô sản của những dân tộc đang hoặc đã áp bức dân tộc khác, cần phải hết sức thận trọng và xem xét kỹ lưỡng đến sự tồn tại của tình cảm dân tộc trong quần chúng lao động ở các quốc gia bị áp bức hoặc bị tước đoạt quyền bình đẳng. Chỉ một chính sách như vậy mới có thể tạo điều kiện cho việc thực hiện một liên minh bền vững và thân thiện giữa các thành phần dân tộc đa dạng của giai cấp vô sản quốc tế. Điều này đã được chứng minh bằng kinh nghiệm của các dân tộc các quốc gia cộng hòa Xô Viết tiếp giáp với nước Nga Xô Viết.

§ 61, 62. CÔNG TÁC QUÂN SỰ

  • 61, 62. Về các vấn đề quân sự, những mục tiêu của đảng được tóm tắt trong các luận điểm sau:
  1. Trong thời đại mà chủ nghĩa đế quốc đang tan rã và nội chiến vẫn hoành hành, khó có thể bảo toàn quân đội cũ, và cũng khó có thể xây dựng một quân đội mới trên cơ sở của cái gọi là phi giai cấp hay toàn quốc. Hồng quân với tư cách là công cụ của chế độ chuyên chính vô sản nhất thiết phải có bản lĩnh giai cấp rõ ràng; có nghĩa là, nó bắt buộc chỉ bao gồm giai cấp vô sản và của các tầng lớp nông dân bán vô sản đồng lòng. Chỉ khi giai cấp đã hoàn toàn biến mất, một đội quân như vậy mới có thể chuyển thành một lực lượng dân quân xã hội chủ nghĩa bao gồm toàn dân.
  • 63. 2. Huấn luyện quân sự cho tất cả các thành viên của giai cấp vô sản và bán vô sản là điều cần thiết, và hướng dẫn quân sự phù hợp phải được cung cấp trong các trường học.
  • 64-65. Công tác huấn luyện và chỉ thị quân sự của Hồng quân được thực hiện trên cơ sở đoàn kết giai cấp và giác ngộ xã hội chủ nghĩa. Vì lý do này, cần phải có các chính ủy, được chỉ định từ những người cộng sản tín nhiệm và quên mình, để hợp tác với quân đội; và tất cả các nhóm cộng sản phải được truyền cảm hứng về sự thống nhất và kỷ luật tự giác.
  • 66. Để chống lại hệ thống của quân đội cũ, các biện pháp sau đây là điều cần thiết: phải giảm đến mức tối đa thời gian sinh hoạt tại doanh trại; doanh trại phải được liên kết với loại hình trường quân sự và chính trị-quân sự; phải có sự liên kết chặt chẽ nhất có thể giữa các đơn vị quân đội với các xí nghiệp, phân xưởng, tổ chức công đoàn và tổ chức nông dân nghèo.
  • 67. Sự đoàn kết và ổn định cần thiết chỉ có thể được cung cấp cho lực lượng cách mạng trẻ bằng một đội ngũ sĩ quan gồm công nhân và nông dân có ý thức giai cấp, được bổ nhiệm làm phụ tá ngay từ đầu. Do đó, rõ ràng, một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất trong quá trình thành lập Hồng quân là chuẩn bị cho những người lính có năng lực và nghị lực đặc biệt, cùng sự cống hiến hết mình vì sự nghiệp phát triển chủ nghĩa xã hội trở thành những sĩ quan chỉ huy tương lai.
  • 68. Chúng ta phải sử dụng những kinh nghiệm kỹ thuật và tác chiến thu được trong chiến tranh thế giới rộng rãi nhất có thể. Để thực hiện mục tiêu này, chúng ta phải thu hút các chuyên gia quân sự được đào tạo trong các trường của quân đội cũ và khả năng lãnh đạo hiệu quả của họ vào công việc tổ chức quân đội. Tuy nhiên, điều kiện cần thiết của việc tuyển dụng những chuyên gia như vậy là quyền lãnh đạo chính trị và sự kiểm soát hiệu quả quân đội nằm trong tay giai cấp công nhân.
  • 69. Nhu cầu bầu cử sĩ quan có tầm quan trọng cốt yếu trong quân đội tư sản, nơi các chỉ huy được huấn luyện một cách đặc biệt như một bộ máy để đàn áp những người lính bình thường (và, thông qua những người lính bình thường, sẽ tiến đến đàn áp tầng lớp khốn khó). Nhu cầu này không còn có giá trị với quân đội giai cấp của công nhân và nông dân. Một sự kết hợp khả thi giữa bầu cử với bổ nhiệm từ cấp trên có thể phù hợp với đội cách mạng đơn giản trên thực địa. Sự phù hợp phụ thuộc vào trình độ văn hóa của các đơn vị quân đội, mức độ đoàn kết giữa các bộ phận khác nhau, hiệu quả của đội ngũ cán bộ chỉ huy và những yếu tố tương tự.

§ 70 – 71. TƯ PHÁP VÔ SẢN

  • 70 – 71. Nắm mọi quyền hành của Nhà nước tư sản, quét sạch các công cụ của Nhà nước đó không để lại dấu tích, quét sạch các toà án luật của chế độ cũ cùng với công thức “nhân dân bầu cử thẩm phán” của phe dân chủ – tư sản; thay vào đó, nền dân chủ vô sản ban hành khẩu hiệu “quyền bầu cử các thẩm phán thuộc về riêng tầng lớp lao động”. Đảng áp dụng khẩu hiệu này trong suốt quá trình quản lý tư pháp, đồng thời cân bằng quyền của hai giới cả trong vấn đề bầu cử thẩm phán và nghĩa vụ bắt buộc phục vụ trong bồi thẩm đoàn. Để thu hút đông đảo nhất có thể thành phần vô sản và tầng lớp nông dân nghèo vào việc quản lý công lý, đảng đã sắp xếp để sự tham gia của các thẩm phán-thẩm phán của tòa án [bồi thẩm đoàn] liên tục được thay đổi trong những khoảng thời gian ngắn, và quy định rằng bồi thẩm đoàn phải lập danh sách, thể hiện tư cách thành viên trong các tổ chức quần chúng của người lao động, tổ chức công đoàn, v.v.
  • 72 – 73. Sau khi tạo ra một tòa án pháp luật phổ biến thống nhất thay cho một loạt các tòa án cũ trong xã hội cũ (tức hệ thống tòa án cấp cao hơn và cấp thấp hơn ở nhiều cấp khác nhau), Quyền lực Liên Xô đã xây dựng hệ thống tư pháp riêng, giúp người dân dễ dàng tiếp cận và chấm dứt mọi sự chậm trễ trong quản lý tư pháp. Sau khi bãi bỏ các đạo luật của chính quyền cũ, Quyền lực Liên Xô để lại cho các tòa án Liên Xô quyền thực thi ý chí của giai cấp vô sản và các sắc lệnh của nó trên thực tế. Trong các trường hợp nghị định không quy định hoặc các nghị định không áp dụng được hoàn toàn, các tòa án phải được hướng dẫn bởi ý thức công bằng xã hội chủ nghĩa.
  • 87-88. 10. Tương tự như vậy, điều cần thiết là tạo điều kiện cho người lao động tiếp cận dễ dàng với tất cả các kho tàng nghệ thuật, vốn được tạo ra nhờ vào bóc lột sức lao động của họ và cho đến nay những kẻ bóc lột vẫn có độc quyền sử dụng  .
  1. Sự phát triển của một cuộc tuyên truyền sâu rộng các tư tưởng cộng sản, bằng cách vận dụng tối đa tất cả các bộ máy và phương tiện của Nhà nước.

§89-92. TÔN GIÁO

  • 89-92. Về vấn đề tôn giáo, Đảng Cộng sản Nga không bằng lòng với quyết sách đã ra về việc tách nhà thờ ra khỏi Nhà nước và trường học khỏi nhà thờ, nghĩa là, không đồng tình với các biện pháp mà nền dân chủ tư sản đã liệt kê trong chương trình của mình song không thực hiện, do các liên kết phức tạp giữa tư bản và tuyên truyền tôn giáo.

Đảng Cộng sản Nga được dẫn dắt bởi niềm tin rằng không có gì ngoài việc đáp ứng đầy đủ nhu cầu quần chúng về việc có mục đích và nhận thức về tất cả các hoạt động kinh tế và xã hội mới có thể dẫn đến sự biến mất hoàn toàn của các định kiến tôn giáo. Đảng nỗ lực đảm bảo sự phá vỡ hoàn toàn của liên minh các giai cấp bóc lột và các tổ chức tuyên truyền tôn giáo, bằng sự hợp tác trong việc giải phóng quần chúng lao động khỏi các định kiến tôn giáo, tổ chức tuyên truyền sâu rộng nhất về sự khai sáng khoa học và các quan niệm chống tôn giáo. Trong khi làm điều này, chúng ta phải cẩn thận tránh bất cứ điều gì có thể làm tổn thương cảm xúc của các tín đồ, vì một hành động như vậy chỉ có thể dẫn đến việc củng cố sự cuồng tín tôn giáo.

§93. CÁC VẤN ĐỀ KINH TẾ

  • 93. Đảng phải hoàn tất việc trưng thu tài sản của giai cấp tư sản, vốn đã được bắt đầu, về cơ bản đã được hoàn thành. Kết quả của việc trưng thu này, tư liệu sản xuất và trao đổi được chuyển thành quyền sở hữu của Cộng hòa Xô viết, tức là trở thành tài sản chung của tất cả những người lao động.
  • 94. Đây là một phần thiết yếu trong chính sách kinh tế của quốc gia Xô Viết nhằm đảm bảo sự gia tăng toàn diện lực lượng sản xuất của đất nước. Khi xét thấy tình trạng vô tổ chức trở nên phổ biến, để bảo vệ đất nước, tất cả các cân nhắc khác phải phụ thuộc vào một mục đích thiết thực là sự gia tăng nhanh chóng, bằng mọi cách sẵn có, số lượng hàng hóa dân chúng cấp bách đang cần. Sự thành công trong hoạt động của mọi thể chế Xô Viết liên quan đến đời sống kinh tế, phải được đo lường bằng những kết quả thực tế trong vấn đề gia tăng sản xuất này.

Trong mối tương quan này, những cân nhắc quan trọng nhất sau đây là

  • 95. Sự tan rã của nền kinh tế đế quốc để lại một di sản cho thời kỳ đầu của quá trình tái thiết Liên Xô, một tình trạng hoàn toàn hỗn loạn về cả tổ chức và điều hành sản xuất. Do đó, một trong những nhiệm vụ cơ bản của chúng ta, một trong những nhu cầu cấp thiết nhất của chúng ta, là đảm bảo sự gắn kết lớn nhất có thể trong tất cả các hoạt động kinh tế của đất nước, phải được thống nhất theo thiết kế chung của chính phủ. Chúng ta phải thực hiện tập trung hóa tối đa sản xuất theo nghĩa thống nhất nó thành các ngành và nhóm ngành riêng lẻ; theo nghĩa là tập trung nó vào các đơn vị sản xuất tốt nhất có thể; và theo nghĩa là hoàn thành nhanh nhất các nhiệm vụ kinh tế. Phải bảo đảm vững chắc tối đa cả bộ máy kinh tế, sử dụng hợp lý và tiết kiệm mọi nguồn lực vật chất của đất nước
  • 96. Muốn vậy, chúng ta phải thúc đẩy sự hợp tác kinh tế chặt chẽ và liên minh chính trị với các dân tộc khác, đồng thời phấn đấu thiết lập một kế hoạch kinh tế thống nhất kết hợp với các kế hoạch kinh tế mà đã thiết lập được một hệ thống Xô Viết.
  • 97. Đối với sản xuất quy mô nhỏ và thủ công nghiệp tại gia, chúng ta phải tận dụng nó một cách rộng rãi nhất có thể bằng cách đưa ra các mệnh lệnh của chính phủ cho những người lao động tại gia. Thủ công nghiệp tại gia và sản xuất quy mô nhỏ phải nằm trong quy hoạch chung nhằm cung cấp nguyên, nhiên vật liệu; và họ phải nhận được hỗ trợ tài chính với điều kiện là nhiều công nhân tại gia khác nhau, ác-ten cho công nhân tại gia, các hợp tác xã sản xuất và các tổ chức nhỏ khác có thể kết hợp để tạo thành các đơn vị sản xuất và công nghiệp lớn hơn. Chúng ta phải khuyến khích các tổ chức như vậy, đồng thời nỗ lực bằng những điều này và một loạt các biện pháp khác để chống lại nỗ lực của những người lao động tại gia để trở thành những nhà sản xuất nhỏ độc lập. Do đó, chúng ta phải thúc đẩy sự chuyển đổi dễ dàng hình thức sản xuất lỗi thời này sang hình thức gia công quy mô lớn cao hơn.
  • 98. Bộ máy sản xuất toàn xã hội này trước tiên phải phụ thuộc vào các công đoàn. Các công đoàn này cần phải dần tự giải phóng mình khỏi quan hệ (sản xuất) thủ công để chuyển đổi thành các đơn vị sản xuất lớn và thống nhất, thu nạp một số lượng lớn nhân công (và tới một lúc nào đó là toàn bộ nhân công) với các ngành sản xuất khác nhau.

Khi các công đoàn đã sẵn sàng (như đã nêu trong điều luật của Cộng hòa Xô-viết và căn cứ vào thực tiễn), thì tất cả những người đang tham gia quản lí cấp trung ương và địa phương các cơ sở sản xuất công nghiệp phải tiến hành tập trung hóa sản xuất vào tay mình, nắm lấy quyền điều hành đời sống kinh tế trong nước và đưa việc này làm mục tiêu chung. Để bảo vệ liên minh chặt chẽ giữa chính quyền, nền kinh tế quốc gia và quần chúng công nhân, các công đoàn cần giúp cho công nhân tham gia trực tiếp vào điều hành sản xuất kinh tế. Sự tham gia của tổ chức công đoàn vào đời sống kinh tế cũng như vào đời sống của quần chúng lao động sẽ đồng thời là mục tiêu chủ chốt của ta trong tiến trình chống quan liêu tham nhũng trong kinh tế của chính quyền Xô-viết. Đây cũng là phương tiện trợ giúp cho việc kiểm soát đầu ra sản phẩm.

  • 99. Hướng đến sự phát triển đời sống kinh tế có kế hoạch đòi hỏi sự tận dụng tối đa nguồn lực lao động theo sự dàn trải sắp xếp từ nhà nước. Sự phân công và phân công lại sức lao động giữa các vùng lãnh thổ và các ngành kinh tế khác nhau là nhiệm vụ ưu tiên trong chính sách kinh tế của chính quyền Xô-viết. Nhiệm vụ đó chỉ có thể được hoàn thành nhờ sự liên kết mật thiết giữa chính quyền Xô-viết và các công đoàn. Sự huy động trong dân chúng những lao động có đủ sức khỏe thể chất và tinh thần (thông qua quyền hạn, chức năng của công đoàn) hòng loại trừ các nghề nghiệp (dư thừa) xác định cần phải được thực hiện toàn diện và có hệ thống hơn bất cứ (sự huy động nào) từ trước tới nay.
  • 100. Bất chấp sự tan rã của các tổ chức sản xuất kinh tế tư bản chủ nghĩa, nguồn lực sản xuất của nước ta vẫn có thể khôi phục và phát triển được; nhưng, phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa chỉ được củng cố không bằng phương cách nào khác hơn là một kỉ luật tự giác giữa công nhân, cùng với sự độc lập (trong lao động) của người công nhân, tinh thần trách nhiệm (một cách tự giác, vì mình) và sự kiểm soát sản phẩm làm ra chặt chẽ giữa công nhân với nhau.

Đạt được những mục tiêu này đòi hỏi nhất thiết phải có sự kiên trì cũng như giáo dục quần chúng một cách có hệ thống khi họ đang được chứng kiến sự thật trước mắt, đó là giới tư bản, giới địa chủ và thương nhân đang bị loại bỏ; và trải nghiệm trực tiếp của họ đang thuyết phục họ rằng cuộc sống tốt đẹp mà họ muốn có sẽ tùy thuộc vào chính kỉ luật lao động của họ.

Trong công cuộc kiến tạo một kỉ luật lao động xã hội chủ nghĩa (mới), vai trò chủ chốt thuộc về các nghiệp đoàn lao động. Các công đoàn, những người từ chối đi theo vết xe đổ (từ xã hội cũ), cần thực hiện nhiều biện pháp khác nhau vì mục tiêu mới này, bao gồm sử dụng hệ thống sổ sách, đưa ra lịch làm việc thường nhật cũng như yêu cầu (về) cường độ làm việc chuẩn hay qui định quyền hạn của hệ thống tư pháp về lao động v.v.

  • 101. Công việc phát triển lực lượng sản xuất này đòi hỏi chúng ta phải sử dụng một cách nhanh chóng, rộng rãi, và đa dạng đội ngũ các chuyên gia (bao gồm cả các nhà khoa học và các chuyên gia kỹ thuật) do nền sản xuất tư bản chủ nghĩa để lại. Chúng ta phải tận dụng họ, mặc dù một thực tế không tránh khỏi là một phần lớn trong số họ đã được nuôi dưỡng bởi triết lý tư bản chủ nghĩa và được đào tạo những thói quen của giai cấp tư sản. Đảng ta cho rằng thời kỳ của cuộc đấu tranh gay gắt với những phần tử thuộc về tầng lớp này – một cuộc đấu tranh bắt nguồn từ sự phá hoại do nhóm người này tổ chức – đã đi đến giai đoạn kết thúc, bởi vì sức mạnh của phong trào phá hoại này đến nay đã bị phá vỡ. Do vậy, Đảng ta phải thực hiện một chính sách liên minh chặt chẽ với các tổ chức công đoàn. Mặt khác, Đảng cần phải tránh mọi sự nhượng bộ chính trị đối với các thành viên của giai cấp tư sản, và phải đàn áp không nhân nhượng bất cứ sự ngả nghiêng nào của họ theo hướng phản cách mạng. Đồng thời, Đảng cũng phải tiến hành đấu tranh không khoan nhượng đối với  cái gọi là ‘chủ nghĩa cực đoan’ [radicalism] (thực tế, là một hình thức tự phụ ngây thơ) của những người tin là giai cấp công nhân có thể vượt qua chủ nghĩa tư bản và hệ thống tư sản mà không cần phải học tập từ các chuyên gia tư sản, không cần sử dụng đội ngũ chuyên gia này, và không cần phải học tập cùng với họ trong một giai đoạn nhất định.

Trong khi cố gắng đảm bảo mức tiền công ngang nhau cho tất cả mọi lao động, và trong khi hướng đến việc thiết lập chủ nghĩa cộng sản toàn phần, Chính quyền Xô Viết không thể thực hiện ngay được sự công bằng tiền công như vậy vào thời điểm hiện nay, khi mà những bước đầu tiên đã được thực hiện để chuyển hóa chủ nghĩa tư bản thành chủ nghĩa cộng sản. Do vậy, việc duy trì trong một thời gian nhất định hệ thống trả lương cao đặc biệt cho các chuyên gia sẽ là cần thiết; điều đó giúp cho các chuyên gia có điều kiện làm việc tốt hơn trước đây. Để thực hiện điều này, chúng ta không được phép cắt giảm các khoản thanh toán cho những công việc được hoàn thành xuất sắc và những công việc đòi hỏi năng lực quản lý cao.

Tương tự như vậy, chúng ta phải tạo cho các chuyên gia tư sản một môi trường lao động xã hội thuận lợi – thắm đượm tình đồng chí, ở đó họ sẽ gắng sức chung vai với những người công nhân, cũng như những thành viên tiên tiến nhất của những người cộng sản. Bằng cách đó, chúng ta sẽ hiểu nhau hơn, và cái hố cách biệt đã tồn tại trong chế độ tư bản giữa những người lao động trí óc và lao động chân tay sẽ được xóa bỏ.

  • 102. Chính quyền Xô Viết đã áp dụng một loạt các biện pháp nhằm phát triển khoa học và gắn liền khoa học với sản xuất. Chính quyền Xô Viết đã xây dựng mạng lưới các viện nghiên cứu khoa học ứng dụng mới, phòng thí nghiệm, các trạm và trung tâm thử nghiệm để nghiên cứu các phương pháp kỹ thuật mới; chính quyền Xô Viết đã đem lại nhiều phát minh và cải tiến; đã lên kế hoạch và tổ chức các phương tiện vật chất và tinh thần cho các mục đích khoa học, v.v… Đảng Cộng sản Nga hỗ trợ cho tất cả các biện pháp này; Đảng nỗ lực hết mình cho sự phát triển hơn nữa của khoa học, và hỗ trợ tạo các điều kiện thuận lợi hơn nữa cho công tác nghiên cứu khoa học, và cho việc sử dụng khoa học để tăng cường năng lực sản xuất của đất nước.

§108-109. NÔNG NGHIỆP

Chính quyền Xô Viết, đang xóa bỏ hoàn toàn sở hữu tư nhân đối với đất đai, đã thể chế hóa một loạt các biện pháp để thúc đẩy việc tổ chức một nền nông nghiệp xã hội chủ nghĩa quy mô lớn. Những biện pháp quan trọng nhất trong số này là: (1) thành lập các nông trang xô viết, tức là các nền kinh tế xã hội chủ nghĩa quy mô lớn; (2) hỗ trợ cho các tổ hợp hoặc các hợp tác xã tiến hành canh tác đất đai mang tính cộng đồng [công xã]; (3) tổ chức canh tác Nhà nước đối với tất cả những loại đất đai chưa canh tác; (4) Nhà nước huy động toàn bộ các chuyên gia nông nghiệp, do vậy những biện pháp tích cực sẽ được áp dụng để cải thiện các phương pháp nông nghiệp; (5) Hỗ trợ cho các công xã nông nghiệp – ví dụ như các hội tự nguyện của các nhà nông học nhằm tiến hành các nông trại hợp tác quy mô lớn.

Tất cả những biện pháp này được Đảng Cộng sản Nga thực hiện một cách thống nhất nhằm thúc đẩy sự nâng cao năng suất của lao động nông nghiệp. Đảng Cộng sản Nga đã rất nỗ lực để tiến hành những biện pháp này một cách hiệu quả nhất có thể, để phổ biến rộng khắp các biện pháp đó ở những vùng phát triển lạc hậu hơn của đất nước, và để khuyến khích sự tiến bộ hơn nữa ở các vùng đó.

  • 110 & 111. Về cơ bản, Đảng Cộng sản Nga tuyên bố:
  • Sự ủng hộ mạnh mẽ của Nhà nước đối với các hợp tác xã nông nghiệp tham gia canh tác các sản phẩm nông nghiệp.
  • Áp dụng mạnh mẽ các phương pháp nhằm cải tạo đất đai.
  • Cung cấp rộng rãi các công cụ canh tác cho tầng lớp nông dân nghèo và trung nông. Việc cung cấp này sẽ được thực hiện thông qua các trạm thuê mướn nông cụ.
  • 112. Tính đến thực tế là nông nghiệp quy mô nhỏ sẽ vẫn tiếp tục tồn tại trong nhiều năm tới, Đảng Cộng sản Nga nỗ lực thúc đẩy một loạt các biện pháp nhằm tăng năng suất nông nghiệp của nông dân. Trong số các biện pháp đó bao gồm:

(1) chính quy hóa việc xới đất của nông dân (bãi bỏ hệ thống văn hóa luống, v.v.); 

(2) cung cấp giống tốt hơn và phân bón cho nông dân; 

(3) cải thiện giống vật nuôi của nông dân; 

(4) phổ biến kiến thức nông nghiệp chuyên sâu; 

(5) cử chuyên gia nông nghiệp hỗ trợ cho nông dân; 

(6) sửa chữa nông cụ của nông dân tại các cửa hàng sửa chữa của Xô Viết; 

(7) đặt nền tảng cho các trạm cho vay, các trạm thí nghiệm, các cánh đồng trình diễn, v.v.; 

(8) cải tạo ruộng đất của nông dân.

  • 113. Khoảng cách giữa thành thị và nông thôn vẫn luôn là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự lạc hậu của các khu vực nông thôn, cả về phương thức canh tác lẫn văn hóa tinh thần. Nhưng, trong một thời đại có tính quyết định sâu sắc như hiện nay thì sự phân chia này tuyệt đối có nguy cơ gây hủy hoại. Do đó, Đảng Cộng sản Nga coi việc chấm dứt sự phân chia này là một trong những nhiệm vụ cơ bản của chính sách xây dựng cộng sản. Ngoài các biện pháp chung, đảng chủ trương coi những hoạt động sau là thiết yếu: lan rộng và thu hút có chủ đích công nhân vào các ngành nghề nông nghiệp do xã tiến hành; phát triển hoạt động của Ủy ban Hợp tác Công nhân (một nhánh của hoạt động Nhà nước đã được thiết lập bởi Chính quyền Xô Viết); và các biện pháp tương tự.
  • 114. Trong mọi hoạt động ở khu vực nông thôn, Đảng Cộng sản Nga chủ yếu dựa vào sự ủng hộ của các tầng lớp vô sản và bán vô sản nông thôn. Đảng tổ chức họ, trước hết, với tư cách là một lực lượng độc lập, thành lập các chi bộ của đảng ở các làng xã, các tổ chức của nông dân nghèo, một loại hình công đoàn đặc biệt cho những người vô sản và bán sản xuất nông thôn,v.v.. đưa những lao động nông thôn ở mọi nơi đến gần hơn, liên hệ chặt chẽ hơn với giai cấp vô sản thành thị, và giành họ khỏi ảnh hưởng của giai cấp tư sản nông thôn và của các quyền lợi tiểu tư sản.

Đối với những người nông dân giàu có – giai cấp tư sản của nông thôn – chính sách của Đảng Cộng sản Nga diễn ra dưới hình thức một cuộc đấu tranh quyết tâm chống lại khuynh hướng bóc lột của họ, và các biện pháp để dập tắt sự phản kháng của họ đối với chính sách của Xô Viết.

Đối với tầng lớp nông dân trung lưu, theo mức độ và mục đích đã định, chính sách của Đảng Cộng sản Nga là thu hút họ vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đảng hướng tới mục đích tách họ ra khỏi tầng lớp nông dân giàu có, đưa họ về phía giai cấp công nhân bằng cách đặc biệt quan tâm đến nhu cầu của họ; cố gắng khắc phục sự lạc hậu của họ trong các vấn đề văn hóa bằng các biện pháp có tính chất tư tưởng, cẩn trọng tránh sử dụng bất kỳ phương pháp ép buộc nào. Trong tất cả các trường hợp mà lợi ích quan trọng của họ bị đụng chạm, đảng sẽ cố gắng đi đến một thỏa thuận thiết thực với họ, nhượng bộ họ nhằm thúc đẩy tái tổ chức xã hội chủ nghĩa.

§115 – 119. Phân phối

Trong lĩnh vực phân phối, nhiệm vụ của Chính quyền Xô Viết vào thời điểm hiện tại là phải tiếp tục thay thế thương mại bằng phân phối hàng hóa có chủ đích, bằng một hệ thống phân phối do Nhà nước tổ chức trên quy mô quốc gia. Mục đích nhằm tổ chức toàn dân thành một mạng lưới liên kết gồm các hợp tác xã của người tiêu dùng, với tốc độ tối đa, mục đích, kinh tế, và chi phí lao động tối thiểu, để phân phối tất cả các hàng hóa cần thiết, đồng thời tổ chức tập trung toàn bộ bộ máy phân phối.

Trên nền tảng của các hợp tác xã người tiêu dùng được thống nhất, phải xây dựng một sự hợp tác chân chính, bao trùm và hiệu quả, dưới hình thức một tổ chức rộng lớn của người tiêu dùng, sẽ trở thành một bộ máy phân phối hàng loạt hoàn hảo hơn bất kỳ cái nào trong lịch sử của chủ nghĩa tư bản.

§120 -121. TIỀN TỆ VÀ NGÂN HÀNG

Để tránh những sai lầm của Công xã Paris, chính quyền Xô Viết trước hết chiếm giữ Ngân hàng Nhà nước và sau đó là quốc hữu hóa các ngân hàng thương mại tư nhân, từ đó mà thành lập một liên hiệp các ngân hàng được quốc hữu hóa, và hợp nhất quỹ tích lũy của chúng để sáp nhập chúng vào Ngân hàng Nhà nước. Bằng cách này nó đã tạo ra khuôn khổ cho Ngân hàng Nhân dân của nước Cộng hòa Xô viết. Như vậy, từ chỗ là trung tâm thống trị kinh tế của tư bản tài chính và là công cụ thống trị về mặt chính trị cho bọn bóc lột, giờ đây ngân hàng đã trở thành công cụ quyền lực trong tay công nhân và là đòn bẩy cho sự chuyển đổi kinh tế. Để đưa ra kết luận hợp lý về công việc mà chính quyền Xô đã bắt đầu, Đảng Cộng sản Nga đặc biệt nhấn mạnh vào những nguyên tắc sau:

  1. Độc quyền kinh doanh ngân hàng nằm trong tay Nhà nước Xô Viết. 
  2. Chuyển đổi một cách căn bản và đơn giản hoá hoạt động ngân hàng, để sao cho toàn bộ hệ thống ngân hàng trở thành một guồng máy sổ sách ghi chép thống nhất cho nước Cộng hoà Xô Viết. Tỷ lệ thuận với việc tổ chức một nền kinh tế xã hội có chủ đích, điều này sẽ dẫn đến sự biến mất của các ngân hàng và chuyển đổi chúng đơn thuần thành trung tâm lưu giữ của xã hội cộng sản.

Trong giai đoạn mở đầu cho quá trình chuyển đổi từ chủ nghĩa tư bản sang chủ nghĩa cộng sản, và trước khi tổ chức được một hệ thống sản xuất và phân phối hàng hóa cộng sản chủ nghĩa trọn vẹn, việc xóa bỏ tiền tệ là không thể. Trong tình cảnh đó, các phần tử tư sản trong dân chúng vẫn tiếp tục sử dụng những đồng tiền mà họ sở hữu để đầu cơ, kiếm lời và cướp bóc từ công nhân. Trên cơ sở quốc hữu hóa ngân hàng, Đảng Cộng sản Nga nỗ lực thúc đẩy một loạt các biện pháp cho phép hệ thống lưu giữ tài khoản mà không cần tiền, và mở đường cho việc xóa bỏ tiền tệ. Đó là: tiền gửi bắt buộc vào Ngân hàng Nhân dân; công khai ngân sách; thay thế tiền bằng các thẻ viết hoặc in, bằng tích kê cấp quyền nhận hàng nhưng chỉ có sẵn trong thời gian ngắn; …

§ 122 – 124. TÀI CHÍNH

Trong thời kỳ bắt đầu việc xã hội hóa tư liệu sản xuất tịch thu được từ các nhà tư bản, Chính quyền không còn là một bộ máy ký sinh ăn bám vào quá trình sản xuất nữa. Giờ đây nó bắt đầu chuyển mình thành một tổ chức có chức năng trực tiếp điều hành đời sống kinh tế của đất nước. Trong chừng mực này ngân sách Nhà nước sẽ là ngân sách của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Trong điều kiện đó, việc cân đối thu chi chỉ có thể bị tác động bởi sự chính xác trong ghi chép về tình hình sản xuất và sự phân phối hàng hoá có hệ thống bởi Nhà nước. Liên quan đến thanh toán bất thường của Nhà nước trong thời kỳ chuyển tiếp, Đảng Cộng sản Nga chủ trương rằng hệ thống thuế đánh vào các nhà tư bản, vốn trong giai đoạn đầu cách mạng là cần thiết và hợp pháp về mặt lịch sử, sẽ được thay thế bằng đánh thuế lũy tiến với bất động sản. Nhưng chỉ tới khi nào mà thuế này không còn có lợi nữa, do sự tước đoạt rộng rãi các tầng lớp sở hữu, thì việc đáp ứng chi tiêu Nhà nước mới phải chuyển đổi một phần thu nhập từ khoản này sang các công ty độc quyền Nhà nước khác nhau.

§125-126. Vấn đề Nhà ở

Vấn đề nhà ở trở nên vô cùng cấp bách trong thời kỳ chiến tranh. Để hỗ trợ giải pháp của mình, Nhà nước Xô viết đã tịch thu toàn bộ nhà ở thuộc sở hữu địa chủ tư bản và giao chúng cho các Uỷ ban thành thị. Nhà nước Xô viết đã tác động tới các khu định cư hàng loạt của công nhân từ các vùng ngoại ô trong các khu nhà của tư sản. Nhà nước đã bàn giao những căn nhà tốt nhất cho các tổ chức của công nhân, sắp xếp việc bảo trì những căn nhà đó với kinh phí phí của Nhà nước; đã đảm nhận việc cung cấp đồ đạc cho các gia đình công nhân, v.v.

Đảng Cộng sản Nga, không làm điều gì trái với lợi ích của những người sở hữu nhà ở kphi tư bản, nó đã phải nỗ lực hết sức để nghiên cứu và áp dụng những biện pháp tốt nhất để cải thiện điều kiện nhà ở của quần chúng lao động; chấm dứt tình trạng quá tải và tình trạng mất vệ sinh của các thành phố; phá bỏ những căn hộ nhà ở không phù hợp để ở, cải tạo nhà cũ, xây nhà mới phù hợp với điều kiện mới của đời sống giai cấp công nhân; tất cả phục vụ cho mục đích tái sử dụng hợp lý nhà ở cho giai cấp lao động lao động.

§127-129. Bảo hộ lao động và công tác phúc lợi xã hội

Sự ra đời của chế độ chuyên chính vô sản đánh dấu lần đầu tiên chúng ta có thể thực hiện tối thiểu các cương lĩnh do các đảng xã hội chủ nghĩa đề ra trong lĩnh vực bảo hộ lao động. Trong Bộ luật Lao động, Chính quyền Liên Xô đã thông qua quy định: một ngày làm việc tám giờ đối với tất cả công nhân là thời gian làm việc tối đa – nhưng đối với những người không đủ mười tám tuổi, làm việc trong các ngành sản xuất đặc biệt nguy hiểm, những người thợ mỏ, ngày làm việc không được quá sáu giờ; một khoảng thời gian bốn mươi hai giờ mỗi tuần nghỉ ngơi không bị gián đoạn cho tất cả công nhân; làm thêm giờ bị cấm; việc sử dụng lao động trẻ em và công dân dưới mười sáu tuổi bị cấm; lao động vào ban đêm, trong các ngành nghề nguy hiểm và làm thêm giờ, bị cấm đối với tất cả phụ nữ và đối với nam thanh niên dưới mười tám tuổi; trong tám tuần trước và tám tuần sau khi sinh con, phụ nữ không cần làm việc, nhưng vẫn được trả lương đầy đủ, được tiếp cận dịch vụ y tế và thuốc men, và những phụ nữ đang làm việc nuôi con bằng sữa mẹ được nghỉ nửa giờ sau ba giờ làm việc ; thanh tra lao động và vệ sinh của các Xô viết sẽ do công đoàn bầu ra.

  • 130-132. Đối với tất cả những người lao động không thể bóc lột lao động của người khác, luật pháp của chính quyền Xô Viết cung cấp bảo hiểm xã hội đầy đủ cho bất kỳ hình thức mất khả năng lao động, và (lần đầu tiên trong lịch sử) cho nạn thất nghiệp mà người đứng ra chi trả sẽ là Nhà nước và người sử dụng lao động, về phía người được bảo hiểm, họ sẽ được độc lập hoàn toàn, bảo hiểm này sẽ nhận được sự giúp đỡ mật thiết từ các tổ chức công đoàn.
  • 133. Hơn thế nữa, khi xử lý những khía cạnh khác, chính quyền Xô-viết đã đề ra (các chính sách) nằm ngoài chương trình cơ bản, và trong Pháp điển về Luật Lao động, (chính quyền) đã tạo điều kiện cho các tổ chức nghiệp đoàn trong vấn đề quyết định tuyển dụng và sa thải lao động. Tất cả công nhân đã làm việc liên tục trong vòng một năm trở lên sẽ được nghỉ phép một tháng có trả lương. Pháp điển cũng quy định về lương theo bậc được đưa ra bởi các công đoàn; ngoài ra, pháp điển còn quy định tổ chức các bộ máy, ban ngành sẽ điều hành và phân công lao động (được lãnh đạo bởi) các xô-viết và công đoàn, nhằm bắt buộc phải tạo việc làm cho cả người thất nghiệp.

Nhưng sự sắp xếp và phân công lao động hết sức vô tổ chức sau chiến tranh cũng như chống phá từ bên ngoài của chủ nghĩa đế quốc trên thế giới đã buộc chính quyền Xô-viết đã lùi một vài bước; cụ thể là, trong một số trường hợp đặc biệt, chính quyền phải trông cậy vào việc đặt giới hạn làm thêm giờ lên thành 50 ngày một năm, hay là cho phép trẻ từ 14 tới 16 tuổi được lao động, đồng thời giới hạn giờ làm việc (của nhóm này) thành bốn giờ một ngày; tạm thời giảm kì nghỉ phép một tháng (đã nêu trên) thành nửa tháng, và tăng thời lượng tối đa của ca làm đêm lên thành bảy tiếng.

  • 134. Đảng Cộng sản Nga phải tiến hành một chương trình tuyên truyền rộng rãi để thúc đẩy sự tham gia tích cực của toàn thể người lao động thực hiện hữu hiệu các biện pháp bảo vệ lao động. Để đạt được điều này, các biện pháp sau đây cần được thực hiện:
  1. Công tác tổ chức và triển khai thanh tra lao động phải được thực hiện một cách chủ động. Để hoàn thành tốt công tác này, cần lấy những công nhân tích cực từ những tầng lớp lao động chân tay, tiến hành chọn lọc và đào tạo họ; và phương pháp này phải được áp dụng cho lĩnh vực sản xuất quy mô nhỏ và công nghiệp gia đình.
  2. Bảo vệ lao động phải được thực hiện ở tất cả các ngành sản xuất, bao gồm cả lĩnh vực xây dựng thương mại, vận tải đường bộ và đường thủy, dịch vụ trong nước, và nông nghiệp.
  3. Phải cấm hoàn toàn lao động trẻ em trong lĩnh vực nông nghiệp và công nghiệp , và phải tiếp tục giảm bớt thời gian làm việc trong ngày đối với lao động trẻ em.

Ngoài ra, Đảng Cộng sản Nga cần phải thực hiện những công việc sau đây:

  1. Trong những trường hợp có sự tăng lên năng suất lao động nói chung, cần phải thực hiện quy định về ngày làm việc tối đa 6 giờ mà không có bất kỳ sự giảm bớt nào về tiền lương; và cùng với quy định về 6 giờ làm việc, sẽ phải có thêm 2 giờ ‘đào tạo’ bắt buộc không được trả công; trong thời gian này người lao động được đào tạo về nghề thủ công, lý luận sản xuất, nghiệp vụ quản lý hành chính Nhà nước, và huấn luyện quân sự.
  2. Áp dụng một hệ thống khen thưởng, hệ thống này sẽ thúc đẩy hoạt động thi đua, nhằm nâng cao năng suất lao động.

Trong lĩnh vực phúc lợi xã hội, Đảng Cộng sản Nga nỗ lực xây dựng một hệ thống trợ cấp Nhà nước rộng khắp, không chỉ hỗ trợ cho các nạn nhân chiến tranh và những người bất hạnh do các lý do khách quan, mà cả những nạn nhân xã hội. Hệ thống trợ cấp này chống lại mọi hình thức lười biếng và ăn bám. Nhiệm vụ chủ yếu của hệ thống này còn là giúp cho những người bị đẩy ra khỏi tầng lớp lao động quay trở lại với cuộc sống xã hội.

§135-138. VỆ SINH CÔNG CỘNG

  • 135-138. Với vai trò nền tảng trong các hoạt động bảo vệ sức khỏe cộng đồng, Đảng Cộng sản Nga đề xuất, ‘trước hết, đưa ra các biện pháp giữ gìn vệ sinh nhằm mục đích ngăn ngừa dịch bệnh. Chế độ chuyên chính vô sản đã có thể đưa ra một số lượng lớn các biện pháp vệ sinh và chữa bệnh vốn bất khả thi trong khuôn khổ xã hội tư sản: ví dụ, quốc hữu hóa hoạt động kinh doanh của các nhà bán lẻ hóa chất, của các cơ sở chữa bệnh quy mô lớn do doanh nghiệp tư nhân thành lập và điều hành, của các khu nghỉ dưỡng sức khỏe; việc thiết lập nhiệm vụ lao động cho tất cả các nhân viên y tế; v.v.

Để phù hợp với điều này, Đảng Cộng sản Nga đề ra những nhiệm vụ trước mắt như sau:

  1. Theo đuổi mạnh mẽ các biện pháp vệ sinh sâu rộng, được thực hiện vì lợi ích của người lao động, chẳng hạn như:

(a) cải thiện điều kiện vệ sinh của toàn bộ địa điểm nghỉ mát công cộng; bảo vệ đất, nước và không khí;

(b) tổ chức bếp ăn công cộng và cung cấp thực phẩm nói chung trên cơ sở khoa học và hợp vệ sinh;

(c) các biện pháp ngăn ngừa sự lây lan của các bệnh truyền nhiễm;

(d) luật vệ sinh.

  1. Xây dựng chiến dịch chống lại các bệnh xã hội (bệnh lao, bệnh hoa liễu, nghiện rượu, v.v.).
  2. Tư vấn, chữa bệnh cho toàn dân một cách vô điều kiện.
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận